Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới và Luật

14/01/201806:05(Xem: 7595)
Giới và Luật

Duc The Ton 2
GIỚI  VÀ  LUẬT
Bài của Cư Sĩ Minh Mẫn
Diễn đọc: Chân Hiền Hiếu




 

Hầu hết các tôn giáo đều có Giới và Luật để tổ chức tồn tại trong trật tự, bảo về tinh đoàn kết nội bộ, riêng Phật giáo, Giới và Luật không chỉ đơn thuần như thế, còn mang tính “khế thời, khế cơ và khế lý” bàng bạc tinh thần dân chủ mà gần 3000 năm trước, xã hội con người lúc bấy giờ trên tinh cầu còn bị thống trị bởi óc phong kiến và nặng về giai cấp.Vậy Giới và luật của Phật giáo như thế nào?

Theo Đại tự điển Phật Quang định nghĩa Giới là:

Tấng lớp, căn cơ,yếu tố, nền tảng, chủng tộc…

  1. Giới  dùng để gọi các phạm trù phân loại, như 6 căn, tiếp xúc với 6 trần, mà sinh ra 6 thức.
  2. Đất, nước, lửa, gió, không, thức gọi là 6 giới. Dục giới, sắc giới, vô sắc giới gọi là tam giới.”Giới” này gần như nghĩa là cảnh giới. Tông Duy thức gọi chủng tử của tất cả pháp là giới.”Giới” này có nghĩa là yếu tố, nguyên nhân.
  3. Giới bản gọi là Ba La Đề Mộc Xoa

Giới là những điều răn cấm do Đức Phật đặt ra khiến các đệ tử xuất gia và tín đồ tại gia giữ gìn để ngăn ngừa tội lỗi.

Theo Luận Bồ đề Tư lương quyển 1 thì giới có 10 nghĩa: Tập cận, bản tính, thanh lương, an ổn, an tĩnh, tịch diệt, đoan nghiêm, tịnh khiết, đầu thủ và tán thán.

Giới gồm có  Tính giới và giá giới. Tính giới cũng còn gọi là Cựu giới, Chủ giới, Tính trọng giới. Giới này bản chất là tội ác như Giết hại, trộm cướp, tà dâm và vọng ngữ.

Giá giới cũng gọi là Tân giới, khách giới,tức Thế cơ hiềm giới, ly ác giới. Giới này bản chất không phải là tội ác, không nằm trong bốn giới nặng như trên…

Theo Tứ phần luật thì Giới chia làm 4 là Giới pháp, giới thể, giới hạnh và giới tướng.

Luận Du già sư địa quyển 40 nêu ra Tam tụ tịnh giới : Nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới.

Ma ha chỉ quán quyển 4 nói – sự giới (cũng gọi là tùy tướng giới) có khả năng dẫn đến ba đường là Trời – người - A tu la. Lý giới ( còn gọi là lý tưởng giới) là giới không chấp vào hình tướng, mà trụ trong Tam quán không giả trung.

Mười giới cơ bản cho Tỳ kheo – tỳ kheo ni – Sa di – Sa di ni là:

  1. Không giết hại
  2. Không trộm cắp
  3. Không tà dâm
  4. Không nói dối
  5. Không say sưa
  6. Không ăn quá bữa
  7. Không nghe  âm nhạc, hát xướng và các trò chơi khác
  8. Không xức dầu thơm, trang điểm
  9. Không ngủ giường cao, đệm êm
  10. Không dính líu chuyện tiền bạc phiền hà thế gian.( cũng có chỗ ghi là không giữ tiền, vàng bạc của quý)…

 

Năm giới đầu được áp dụng cho Cư sĩ, và trong một số ngày đặc biệt như Bát Quan trai có thể lên đến tám

Giới là những quy định hạn chế sai phạm thông thường, trong lúc đó Luật được hiểu là quy luật dành cho những người xuất gia, sống trong chùa hay thiền môn, tu viện.

                                        
         ***

Giới và luật vốn khác nhau. Thông thường giới là những điều được nói trong Luật thuộc ba tạng, là một bộ phận của Luật. Còn luật là những bộ sách giải thích rõ về giới và đặt ra những quy định xử phạt khi phạm giới.

Luật – còn gọi là Ty ni, nghĩa là “điều phục, li hạnh, diệt, thiện trị. Những quy định do Đức Phật chế định có liên quan đến đời sống Đạo mà các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni phải tuân thủ. Đưa ra những chế định xử phạt khi phạm tội.

Sau khi đức Phật nhập diệt, Ưu Ba Li kết luật pháp 80 lần gọi là bát thập tụng luật. Thông thường chỉ nghe đến bộ Tứ phần luật, thực ra còn có Thập tụng luật, Ngũ phần luật, và những bộ luật của các bộ phái khác.

(Phật Quang Đại từ điển ) 

Ngoài 10 giới cơ bản, Tỳ kheo còn có 250 giới, Tỳ kheo ni có 348 giới

Giới có là do có người sai phạm, tùy loại hình sai phạm mà Phật chế giới. Tuy nhiên, một điều quan trọng đã được ghi lại trong Kinh, là trước khi đức Phật Thích Ca diệt độ, ngài đã căn dặn cho A-nan-đà, người đệ tử thân cận nhất của ngài: " Này A-nan-đà, sau khi ta ra đi, nếu Tăng đoàn muốn, có thể bỏ được trong Giới Luật những điều nhỏ nhặt, không đáng kể " (Kinh Đại Bát Niết Bàn Pali). chính vì thế trong luật có khai – giá – trì – phạm.

Thế nào là khai giá trì phạm trong luật Tứ phần?theo Thiền sư Duy Lực giảng:
Khai: Ví như uống rượu là phạm giới, có tội phạm giới nhưng không có tội nhân quả, cho nên có thể khai. Khai bằng cách nào? Trường hợp mắc bệnh mà thầy thuốc nói cần uống thuốc rượu mới hết, ngươì ấy khai báo ra lý do, ấy là không phạm.
Giá: Giá là che. Tại sao phải che? Trong giới luật, như một trăm điều về tứ oai nghi cũng chỉ có tội phá giới, không có tội nhân quả. Vậy thì tại sao phải lập ra những giới điều trên? Là vì muốn che không cho người đời phê bình. Ví như ở Ấn Độ, nếu Tu sĩ đi làm ruộng thì người đời phê bình, cho nên làm ruộng là phạm. Ngược lại, ở Trung Quốc, Tu sĩ đi khất thực thì người đời lại chê là con mọt gạo, còn đi canh tác thì được chấp nhận, nên ở Trung Quốc làm ruộng là giữ giới, ở Ấn Độ làm ruộng lại phá giới. Tại sao phải che? vì hễ muốn hoằng pháp thì phải phù hợp với phong tục của địa phương đó.

Trì và phạm: Gồm chỉ trì và tác trì, từ 5 giới, 10 giới, đến 250 giới, 348 giới Thanh Văn, gọi là chỉ trì, tức không làm thì không phạm, còn giới Bồ tát gọi là tác trì, những việc cần làm thì phải làm, không làm là phạm.

Giới được phân định: Biệt giải thoát giới ", " Đạo cộng giới " và " Định cộng giới”

Theo truyền thống, trong 12 năm đầu, đức Phật chưa chế ra giới, vì chưa có chuyện gì rắc rối xẩy ra trong Tăng đoàn, có thể gây nên cản trở cho sự tu tập của tăng ni.

Nhưng vào năm thứ 13, có xẩy ra chuyện Na-đề-tử ân ái với vợ cũ, cho nên Phật mới bắt đầu chế giới. Mỗi khi chế một giới, ngài lại nói 10 lợi ích của việc chế giới đó: " Vì sự kiện toàn của Tăng già, sự trường tồn của Chánh Pháp, sự an lạc của Tăng chúng, sự tăng trưởng của lòng tin, sự đoạn diệt phiền não trong hiện tại và tương lai... "

Cứ như vậy, mỗi khi xẩy ra một sự cố, ngài lại chế thêm một giới, và dần dần số giới mỗi ngày một gia tăng,.Tuy nhiên đa số giới luật là những giới nhẹ, nhỏ nhặt, vụn vặt, không cần thiết. Chẳng hạn như " không được xỉa răng, hỉ mũi hướng về tượng Phật ". Nếu muốn chú tâm vào những giới quan trọng, chính yếu một cách nghiêm chỉnh, thì người ta phải bỏ đi những giới thứ yếu, nhỏ nhặt, không cần thiết

                                                    ***

Do đâu phải giữ giới?

- Bạch Thế Tôn, các thiện giới có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, các thiện giới có ý nghĩa không có hối tiếc, có lợi ích không có hối tiếc.

- Nhưng bạch Thế Tôn, không có hối tiếc có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, không có hối tiếc có ý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoan.

- Bạch Thế Tôn, nhưng hân hoan có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, hân hoan có ý nghĩa hoan hỷ, có lợi ích hoan hỷ.

- Nhưng bạch Thế Tôn, hoan hỷ có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, hoan hỷ có ý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an.

- Nhưng bạch Thế Tôn, khinh an có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, khinh an có ý nghĩa an lạc, có ích lợi an lạc.

- Nhưng bạch Thế Tôn, an lạc có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, an lạc có ý nghĩa định, có lợi ích định.

- Nhưng bạch Thế Tôn, định có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, định có ý nghĩa như thật tri kiến, có lợi ích như thật tri kiến.

- Nhưng bạch Thế Tôn, như thật tri kiến có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, như thật tri kiến có ý nghĩa nhàm chán, ly tham, có lợi ích nhàm chán, ly tham.

- Nhưng bạch Thế Tôn, nhàm chán, ly tham có ý nghĩa gì, có lợi ích gì?

- Này Ananda, nhàm chán, ly tham có ý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến.

Dưới dạng Mật giới, hành giả nguyện rằng:

  1. Không lìa chính pháp;
  2. Không xao lãng việc tu tập;
  3. Không tham lam, không ích kỉ;
  4. Lúc nào cũng giữ lòng từ bi với chúng sinh;
  5. Không phỉ báng một tông phái nào của Phật giáo;
  6. Không bám chặt vào bất cứ cái gì;
  7. Không ôm ấp vọng tưởng;
  8. Khuyến khích chúng sinh phát tâm Bồ-đề;
  9. Thuyết giảng giáo pháp Đại thừa cho những người theo Tiểu Thừa;
  10. Luôn luôn bố thí cho chư vị Bồ Tát.

                                        ***

Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú 160: “Ta là nơi nương nhờ của ta, không ai khác là nơi nương nhờ của ta được, khi ta đã thuần tịnh thì đó là nơi nương nhờ hy hữu.” mục đích của giới, trên nguyên tắc, là để " phòng phi chỉ ác", tức là phòng ngừa các điều phi pháp và ngăn chận các điều ác quấy, đồng thời cũng là chỉ ác tác thiện ", tức là ngăn chận các điều ác và thành tựu các việc lành. Cũng như lời dạy đức Phật trong Kinh Pháp Cú, 183, lập lại bởi thiền sư Ô Sào: " Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành, Tự tịnh kỳ ý, Thị chư Phật giáo " (Không làm các điều ác, thành tựu các việc lành, giữ tâm ý thanh tịnh, ấy lời chư Phật dậy).

Như vậy, đức Phật đã khẳng định giữ gìn giới luật là điều quan trọng.Giới luật còn thì Phật pháp còn.

Khác với luật pháp thế gian, Giới luật của Phật giáo, được xây dựng trên từ bi và trí tuệ hiểu biết về nhân quả, nghiệp báo nên không bị giới hạn hạn bởi không gian, thời gian. Tuy rằng khi chế định giới luật, Đức Phật có dựa trên nền tảng xã hội, văn hóa đương thời nhưng mục đích chú trọng sự giáo dục để phát triển khả năng đạo đức tốt đẹp nhất của con người, đem lại hạnh phúc thật sự cho con người và từng bước đưa họ vào thánh đạo. Do đó, muốn hiểu giới luật của Phật giáo thì phải biết rõ về định luật nhân quả, nghiệp báo.

Người phạm tội ác sẽ chịu tác động bởi luật nhân quả, nhưng người phạm giới thì phạm vào giới luật đã thọ nhận và dĩ nhiên nhân quả cũng không tránh khỏi.Dù không hành động hay nói lời ác, nhưng ý tưởng độc ác vẫn là hạt giống xấu đợi ngày trổ quả.

Luật thế gian mang tính ngăn chận xâm hại quyền lợi của xã hội, của người khác, riêng luật giới nhà Phật vì lòng từ bi mà không nỡ hành động bằng lời nói, việc làm và ý nghĩ làm tổn hại kẻ khác và gieo nhân xấu cho chính mình.

                                                     ***

Giới luật ngày nay, để thich nghi với nhu cầu nhân loại, giới cần bổ sung cho tín đồ  đang cộng sinh trên tinh cầu - 5 giới căn bản của người Phật tử, không ai chối cãi sự cần thiết và sự ích lợi cho bản thân cũng như cho xã hội, nhưng cần  thêm một số chi tiết cho phù hợp với thời đại, như 1) ...không sát hại súc vật, không làm hại môi trường, thiên nhiên, trái đất; 2) ...không bóp méo, trốn tránh, che đậy sự thật, 3) ...không ăn cắp của công, không tham nhũng, không gian lận, 4) ...không phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác bằng cách tư tình phi pháp, 5) ...không hút thuốc, nghiện thuốc hay ma túy, không dùng các chất hóa học gây rối loạn thần kinh…

Tuy nhiên có một vài trường hợp Giới luật đã gây lấn cấn trong tu sĩ ở phương Tây hiện nay luôn tôn trọng sự bình đẵng giữa nam và nữ thì Bát kỉnh pháp lại là vấn đề mà chư Tăng đang xét lại cho thích nghi với quốc độ đang sống.

                                                        ***

Xác định giới giúp đưa đến Định, từ định thì Tuệ sẽ phát sinh.Giới luật là một phần trong giáo pháp của Phật. Theo tinh thần “Phật giáo phát triển” thì thế gian pháp tức Phật pháp, có nghĩa Phật pháp là bất định pháp, có thể uyển chuyển linh động “tướng giới”mà vẫn không đánh mất “tánh giới”.Thời Phật còn tại thế, chư Tăng chỉ đi trì bình khất thực nuôi thân và không giữ tiền, nếu khư khư chấp chặt giới tướng như thế thì đạo Phật khó mà phát triển như ngày nay.

Trong xã hội công nghiệp và chú trọng hiệu quả kinh tế, chư Tăng không thể ngày ngày ôm bình đi khất, cá nước phương Tây, chư Tăng cũng phải đi làm như mọi người, vì thế, Tổ  Bách trượng đã sáng tạo loại hình “nông thiền” để tự túc kinh tế mà không bị xem là loại “mọt hạt gạo”. Ngày nay, trừ vài nơi nông thôn chư Tăng còn canh tác, hầu hết vùng nghèo khó trong cuộc sống, nhà chùa không thể ngồi chờ bá tánh cúng dường, do đó, một số chùa tự sản xuất thực phẩm, nhang đèn để nuôi chúng.Chư Tăng ngày nay đi hoằng pháp không thể đi bộ như thời đức Phật, nếu không giữ tiền ai cho lên xe, hoặc cây xăng đâu cho không các tu sĩ. Đừng vì thế mà bảo là phạm giới.

Đừng nhìn giới tướng mà đánh giá nếu giới tánh không khởi lòng tham mong cầu dư thừa vật chất hoặc bon chen se sua với người đời. Tinh thần “tam thường bất túc” vẫn còn giá trị cho chư Tăng trong thời đại kinh tế thị trường ngày nay. Cho dù kinh doanh bất cứ dưới hình thức nào mà “tri túc, tiện túc, hà thời túc” vẫn có thể chấp nhận; đấy là tinh thần giới luật của Phật tùy cơ, tùy thời và tùy xứ, không bị “giới cấm thủ” giết chết giá trị giới luật của đức Phật.

 

Sài gòn ngày 13/01/2018
Cư Sĩ Minh Mẫn

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/07/2015(Xem: 12612)
Nhật báo của thành phố Neuss tường thuật về Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ 27 Ngày 22.07.2015 Những Ngày Nghỉ Hè Được Dành Cho Đức Phật Khoảng 500 người Phật Tử Việt Nam đến từ Âu Châu gặp nhau 10 ngày tại Neuss. Chư Tôn Đức Tăng Ni cùng với tham dự viên của Khóa Phật Pháp Âu Châu lần thứ 27 thực tập giáo lý Phật Đà. Bài của ký giả Von Katrin Haas Thích Như Điển và Thị Chơn dịch từ tiếng Đức sang tiếng Việt
23/07/2015(Xem: 12173)
Quãng năm 2000 tôi may mắn được đọc cuốn sách quý “Năng đoạn kim cương” bằng tiếng Anh tại Sydney, Australia. Phải nói thật rằng, là người đang tìm hiểu về Phật giáo, nhất là mới đọc qua kinh Kim cương lúc bấy giờ, tôi rất yêu thích cuốn sách đặc biệt này. Để rồi, ngay khi rời tập đoàn FPT để lập ra công ty sách Thái Hà vào năm 2007, chúng tôi tìm mọi cách liên lạc với tác giả để mua bản quyền cuốn sách quý này để xuất bản tại Việt Nam. Năm 2008 sách chính thức xuất hiện và vào năm sau 2009, chúng ta có may mắn được đón Geshe Michael Roach và phái đoàn hơn chục giảng viên vào Việt Nam để có 2 buổi nói chuyện công chúng tại Thủ đô Hà Nội và TP HCM với sự tham dự của hơn 1.000 doanh nhân và các nhà tri thức. Và khi đó khóa thiền yoga 3 ngày ấn tượng đã diễn ra tại khu nghỉ dưỡng Ba thương, huyện Củ Chi mang lại lợi ích sâu sắc cho rất nhiều người.
23/07/2015(Xem: 11220)
Ni Sư Thubten Chodron (thế danh Cherry Green), sinh năm 1950, lớn lên gần vùng Los Angeles. Ni sư hoàn thành Cử Nhân Lịch Sử tại Đại Học UCLA năm 1971. Sau khi du lịch qua Châu Âu, Bắc Phi và Châu Á trong khoảng một năm rưỡi, Ni sư trở về Mỹ, lấy chứng chỉ sư phạm, theo học chương trình sau đại học tại USC về Giáo Dục và dạy học ở Hệ Thống Các Trường tại thành phố Los Angeles. Năm 1975, Ni sư tham dự một khóa tu thiền của Ngài Lama Yeshe và ngài Zopa Rinpoche. Sau đó Ni sư qua Nepal tiếp tục tu học và hành thiền tại Tu Viện Kopan. Năm 1977, Ni sư được Ngài Kyabje Ling Rinpoche cho xuất gia tại Dharamsala, Ấn Độ, và năm 1986 Ni sư thọ đại giới tại Đài Loan.
22/07/2015(Xem: 5792)
Đạo Phật không phải là ngẫu nhiên luận rồi vô trách nhiệm đối với những hành vi của mình, hay cho rằng mọi chuyện rủi ro, may mắn, bất ngờ đều do bổng dưng, khi không, tự nhiên mà có. Khái niệm về số mệnh hay số phận là quan niệm của các trường phái triết học như Thần ý luận, Đa thần giáo, Túc mệnh luận, Định mệnh luận và Thiên mệnh.
20/07/2015(Xem: 12432)
" Vào thời mạt thế Nhân loại đảo điên, Tai họa liên miên Sóng thần Động đất. Chủ nghĩa vật chất Ngự trị thế gian,
20/07/2015(Xem: 9089)
Lòng nhân từ của cậu bé 5 tuổi Cậu bé Josiah Duncan, 5 tuổi đã làm khách tại nhà hàng rơi nước mắt sau khi mua cho người đàn ông bữa ăn và hát cho ông nghe.
17/07/2015(Xem: 7453)
Tôi xuất gia từ nhỏ, đã thọ giới Sa-di được bốn năm. Lúc nhỏ thì tôi không biết gì nhưng nay tôi phát hiện mình là người đồng tính nam (gay). Khi các bạn đồng tu biết tôi là gay, họ có vẻ kỳ thị và thường nhìn tôi bằng ánh mắt khác. Cuối năm nay, tôi sẽ được bổn sư cho đi thọ Đại giới, làm Tỳ-kheo. Tôi có nghe rằng người đồng tính nam như tôi thì không được thọ Đại giới. Vậy điều đó có đúng không? Trước đây, tôi có nghe những người như tôi không được thọ Đại giới nên đã nhiều lần có ý định hoàn tục nhưng vì tôi không đủ can đảm để tự quyết định. Bên cạnh đó, sư phụ, bố mẹ và các thầy trong chùa cũng rất kỳ vọng và thương yêu tôi, tôi sợ sẽ làm các vị ấy đau lòng. Hiện tôi không biết phải làm sao? Mong quý Báo hoan hỷ giúp tôi.
15/07/2015(Xem: 9433)
Hãy ngồi thẳng một cách thoải mái, không nghiêng về phía trước hay sau, trái hay phải. Hãy nhắm mắt lại, và hãy nghĩ với các niệm thiện lành. Những niệm thiện lành trước tiên là hướng về bạn, bởi vì nếu bạn không thể hướng niệm thiện lành về bạn -- nếu bạn không thể cảm thấy một khát vọng chân thực cho hạnh phúc riêng của bạn -- sẽ không có cách nào bạn có thể chân thực ước muốn cho kẻ khác có hạnh phúc.
14/07/2015(Xem: 10285)
Phật từng lên tiếng dạy ta: “Những người tu đạo như là khúc cây Trôi trên dòng nước cuồng quay Khôn ngoan thì hãy trôi ngay giữa dòng Ai muốn vớt cũng khó lòng Quỷ thần ngăn chặn cũng không dễ gì
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]