Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nguồn Xưa

26/08/201722:19(Xem: 5296)
Nguồn Xưa
NGUỒN XƯA  
Pháp thoại tại tu viện Lộc Uyển Ngày 13-09-2008

Chúng ta đang ngồi với nhau ở đây, trong không gian của núi rừng Lộc Uyển sau khi khóa tu Về Nguồn vừa kết thúc. Tôi muốn mượn hai chữ Về Nguồn để mời tất cả cùng đi vào thăm dò đời sống bên trong, tìm đến cội nguồn sự sống của mình: cội nguồn của đời sống gia đình và cội nguồn đời sống tâm linh.

Khi thăm dò được vào đời sống tâm linh của chính mình, ta sẽ có hạnh phúc và người thân của ta cũng được hạnh phúc. Nếu ta chưa tìm vào đời sống nội tâm, tức về lại cội nguồn sâu xa của chính mình thì đời sống ta chỉ ở trên bình diện cạn, lay lắt phù du không thể thiết lập được nền tảng cho hạnh phúc chân thật. Và hẳn nhiên khi không làm cho mình hạnh phúc ngay nơi hoàn cảnh của mình, thì thật khó mà nói đến việc hiến tặng hạnh phúccho người thân. Do vậy, trở về với nguồn cội huyết thống là quan trọng, nhưng chỉ ở mặt cạn. Trở về nguồn cội tâm linh mới là điều kiện thiết yếu của đời người.

Ngày xưa đức Thế Tôn suốt 45 năm giảng dạy trên khắp lưu vực sông Hằng, chung quy ngài cũng chỉ muốn truyền đạt các phương pháp hay các pháp môn để cho những người có duyên với chánh pháp tự mình thăm dò vào đời sống nội tâm thâm sâunhất của chính họ. Đến nayphương pháp này vẫn được biểu hiện trong sinh hoạt của già lamtự viện qua các khóa lễ quy y Tam Bảo (quay về nương tựa). Theo đó, bước đầu chúng ta có thể quy y theo Phật, Pháp, Tăng bên ngoài, nhưng cuối cùng, nền tảng chính vẫn là quay về nương tựa hay quy y với tâm Phậtcủa chính mình. Theo Thiền tôngquy y Tam Bảo nghĩa là quay về nương tựa vị Phật bên trong, cũng chính là tánh giác của mỗi người (quy y Phật); quay về với tâm chân chánh của mỗi người (quy y Pháp) và quay về với tâm thanh tịnh của mỗi chúng ta(quy y Tăng).

Có thể nói phần lớn chúng ta đến với đạo do cảm tính hơn là lý tính; vì thấy vui mà đến với đạo, hay buồn khổ mà đến với đạo hoặc vì cảm tình với vị thầy này, với sư kia mà đến với đạo. Đến chùa vì nơi đó có không gian yên tĩnh, nơi đó cho mình một chút an bình, tịnh lạc, một chút niềm vui trong cuộc sống. Điều này không hẳn là sai, nhưng nếu ta chỉ sống với những gì nông cạn như thế thì chỉ trong một thời gian ngắn ta sẽ chán đạo. Cảm tính là phần rất cạn của đời sống tâm lý thường đi kèm với những vui buồn, thương ghét, khen chê... lắc lư như thuyền nhảy sóng.

Ý nghĩa đích thực của việc quy y Tam bảo là chúng ta bước sâu vào vùng đất tâm, quay về nương tựa nơi chính mình, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng là chúng ta đang quay về về nguồn cội - nguồn cội tâm linh. Làm được như vậy thì dù Tam Bảo bên ngoài có dễ thươnghay không, Phật pháp thịnh hay suy không còn là điều quan trọng. Dù cho ngũ dục trần gian có lôi kéo, những chướng ngại có cản đường, cũng không ảnh hưởng gì đến ta, bởi chúng ta đã có một vùng đất tâm linh an ổnvững vàng để cư trú, để nương tựa. Ta nương tựa với Tam Bảo ngay trong ta và nương tựa vào chính trạng thái Niết bàn của ta. Lúc bấy giờ, dù sống trong lều tranh, ăn cơm hẩm, uống nước suối ta vẫn thấy tuyệt vời lý thú vì đời sống ta đã thật sự thong dong, phiều bồng không vướng bận.

Người tu khi thấu đạt đạo lý, đến được nguồn xưa cũng có nghĩa là về lại chốn sâu thẳm của nguồn linh, tánh giác. Người xuất gia an trú được nơi nguồn cội đó thì mọi Phật sự lớn, nhỏ trong nhân gian chỉ xem như một trò chơi, dù có đem thân vào phố chợ thuyết phápgiảng kinh, hoặc ngồi một mình trong rừng sâu núi thẳm cũng đều thấy lòng phơi phới. Được ngàn vạn người tôn kính cúng dường, hoặc bị nhục mạ xem thường cũng cảm thấy như một trò đùa. Nếu các vị cư sĩ mà thâm đạt vào vùng đất tâm của chính mình thì lúc ấy, nhà cao, cửa rộng, tiền củadanh vọng, người thân đang vây quanh buộc ràng như ngục tù, phiền trược... cũng trở nên nhẹ tênh. Dĩ nhiênquy y Tam Bảo bên ngoài là những bước tu tập căn bản và rất quan trọng trên con đường về nguồn của chúng ta. Cũng như khi muốn đi hết một con đường dài, thì chúng ta không thể không khởi hành với những bước ban đầu thật vững chãi.

Về nguồn trong ý nghĩa thâm ái nhất là an trú vào sâu thẳm tâm linh. Và bốn câu đầu trong bài sám Ngã Niệm mà các giới tử thọ giới Tỳ kheo thường đọc sau thời Lăng Nghiêm có thể làm sáng tỏ thêm ý nghĩa này. Lời sám thống thiếtlâm ly mà mỗi khi tụng lên có thể khiến lòng mình rung động:

Ngã niệm tự tùng vô lượng kiếp
Thất viên minh tánh tác trần lao
Xuất sinh nhập tử thọ luân hồi
Dị trạng hình thù tao khổ sở.
Tạm dịch:

Con nhớ rằng con đã từ vô lượng kiếp, bỏ quên tánh giác ngộ trong con mà đi vào cuộc trần lao. Vào sinh ra tử lăn lộn trong cõi luân hồi, đã thay hình đổi dạng biết bao lần trong khổ nạn (làm người, làm thú, làm ngạ quỷ...).

Hình hài này có được là từ sự phối hợp của tinh cha, huyết mẹ. Ta tồn tại đến ngày nay là nhờ các pháp hữu vi nuôi dưỡng (gạo cơm, khí trời, ánh nắng...). Nhưng nhìn xa hơn thì ta từ đâu mà tượng hình trong thai mẹ? Ta có thể trả lời là từ nghiệp thức. Nhưng lần tìm phía sau nghiệp thức thì ta ở đâu? Chúng ta chưa thăm dò được. Khi nào chúng ta thắp sáng được nguồn tâm thì có thể thăm dò vào sau tầng nghiệp thức để biết ta từ đâu đến và khi trả hình hài này cho cát bụi ta về đâu. Chúng ta thường đặt ra những nghi vấn, những thắc mắc như đang ở trong cõi mộng và nói chuyện mộng, vì chưa chịu quay về tự tâm để thấu đạt nguồn linh tánh giác của mình. Nhưng có một điều chắc chắn rằng mọi pháp hữu vi trên đời đều sinh ra từ nền tảng của pháp vô vi.

Thực tế cũng đã chứng minh cho ta thấy sông núi, cỏ cây, nhà cửa... đều có mặt từ không gian bao lanày. Không có không gian trống rỗng thì không vật gì có thể sinh ra được, kể cả những hạt bụi li ti. Sau vụ "nổ lớn" tạo thành những hành tinh, những dãy thiên hà.... thì sự sống dần dần có mặt. Đầu tiên là các loại tảo dưới đáy biển, hình thành sự sống của những tinh thể đơn bào, tiến dần đến hình thành những sinh vật biết bò, sống nửa ướt nửa khô hội nhập vào thảm thực vật trải dài trên mặt địa cầu - sự sống sinh động bắt đầu có mặt. Và con người là loài động vật xuất hiện sau cùng.

Người ta đã nghiên cứu bằng cách phân tích cấu trúc não bộ của con người và cho rằng tuổi thọ của con người chỉ có bốn triệu năm. Thế nhưng sự tồn tại của tâm thứcnghiệp thức con người không phải chỉ ngần ấy thời gian, mà nó đã có mặt hằng triệu triệu năm trong cõi luân hồi. Không phải chỉ nhờ vào những yếu tố hữu vi (cha mẹ, khí trời, thức ăn...) để cho ta có thể hiện diện trên cõi đời, mà từ quá khứlâu xa hơnnghiệp lực đã đưa ta có mặt và sâu hơn cấp độ nghiệp lực, đó chính là nguồn linh tánh giác nuôi dưỡng chúng ta. Điều này mới nghe qua có thể ta thấy khó hiểu, nhưng thực tế rất đơn giản. Thử nhìn vào thiên nhiên ở bình diện cạn, chẳng hạn như mặt đất sinh ra cây cỏ, thế nhưng đất không thể tự nó sinh ra cây cỏ được; phải là một cái gì đó sâu hơn, nằm phía sau, bên trong đất mới tạo nên thảo mộc, cỏ cây. Sự tồn tại của con người chúng ta cũng vậy, không phải chỉ nhờ vào những điều kiện ta có thể nắm bắt, đo lường như cơm áo, nhà cửa... mà nhìn xa hơn, những gì ta phải nhờ đến đó là nước, không khí cho ta sự sống, và mịn hơn là ánh sáng, là năng lượng mặt trời. Cho nên những gì làm cho sự sống luân lưu thường rất tinh mịn, vi tế, mắt chúng ta khó thấy được, chỉ có thể cảm nhận mà thôi.

Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao từ nguồn linh tánh giác ta lại lạc vào chốn trần lao? Rõ ràng, nếu lần dò được nơi chốn ta đã lạc lốichắc chắn ta sẽ tìm ra được con đường trở về. Tuy chưa tiếp xúcđược với nguồn linh tánh giác của mình, nhưng ta có thể nhận biết được nguyên nhân từ đâu có buồn khổ, từ đâu có giận hờn, từ đâu có bất an. Và ta cũng có thể nhận ra được những cảm thọ nảy sinh ra từ đâu; và khi lần bước vào sâu hơn, ta sẽ nhận biết con người đích thực của ta không phải từ nguồn chảy vui buồn, giận hờn, bất an đó. Đây chính là con đường trở về nguồn cội của chúng ta.

Khi trong ta khởi lên tiếng nói thì thầmlập tức có vui buồnlo âusợ hãi, thương ghét... phát sinh theo. Các tâm hành này sinh diệt liên tục không ngừng và chúng là tác nhân hủy phá, làm chìm lấp tâm thanh tịnh vốn có của mình. Chỉ một thoáng nhìn thôi là quá khứ tràn về, tiềng thầm thì sinh khởi dẫn dắt ta chìm nổi, đồng hóa, đánh mất mình trong đó, cho nên nói: "... tự tùng vô lượng kiếp, thất viên minh tánh tác trần lao" là như vậy. Cho nên một bước sẩy chân không phải chỉ trong lúc này mà ta đã sẩy chân từ triệu triệu kiếp. Rõ ràng con đường này từ quá khứ đã dẫn ta đến hôm nay, và còn hứa hẹn dẫn ta đi hoài trong sinh tử. Do vậy có thể nói tiếng thầm, độc thoại, đối thoại trong ta là nhân tố gây nên bao nỗi sầu đau, phiền não, làm cho ta mất đi "tánh viên minh", khiến cho ta nổi chìm nhiều đời nhiều kiếp. Khi nhận ra được nguyên nhân này, ta có thể tin rằng ta đã thăm dò được vào chiều sâu của tâm thức, mở được cánh cửa thể tánh giác ngộ, bước thẳng về nguồn. Khi ấy, tất cả đến đi, mất còn của đời sống bên ngoài chỉ là bọt sóng, là sương mai đầu ngọn cỏ, không có gì làm cho ta chao đảo, lo sợ. Ý nghĩ thầm thì vẫn trôi chảy miên man, nhưng trong ta có cái vẫn đứng yên, đó là cái nhìn, cái thấy, khả năng quán chiếunhận biết của chúng ta. Nói ngắn gọn là cái "biết" của ta. Tự thân của những chữ "nguồn linh tánh giác" đã nói lên điều này.
Chúng ta quay về an trú ngay nơi nguồn linh tánh giác của mình là có thể lìa được buồn giận, lo lắngbất an. Sâu hơn nữa là gột sạch nghiệp thức của nhiều đời. Cuối cùng, như đức Thế Tôn dạy: "Củi hết, lửa tắt", nghĩa là hết phiền não, sầu lo thì "tánh giác viên minh" hiển hiện. Một khi có hình hài thì có sinh diệtnghiệp thức còn thì có đến có đi, có vui có buồn... Trái lại, khi chúng ta tan biến vào bản thể của tánh giác mênh mông thì không còn gì có thể đeo bám, ở đó không có trong, không có ngoài, bởi nơi chốn ấy như như bất động. Ngay bây giờ và ở đây, ta là trạng thái tỉnh sáng, rỗng lặng của nhận biết, ta là nguồn linh tự tánh của chính ta. Ta không cầu sinh về cảnh giới Dược Sư, cũng không mong cảnh giới Cực Lạc của A Di Đà. Ta chỉ hòa mình vào biển giác, tan biến vào đó chứ chẳng có gì gọi là chứng quả.

Chúng ta đừng nghĩ rằng chỉ có người tu hay giới xuất gia mới làm được điều này. Ngày xưađức Phậtsau khi thành đạo, ngài nói: "Mọi chúng sanh trên hành tinh này đều có chủng tánh Như Lai", tức là có khả năng chứng nghiệm trạng thái Niết bàn nơi tự tâmVấn đề là chúng ta có thật sự mong muốn khám phá chiều sâu của lòng mình hay không mà thôi.

Chuyện xưa kể, có hai người bạn tên là Lưu Thần và Nguyễn Triệu, nhân đi hái thuốc mà lạc bước vào động Thiên ThaiĐời sống tiên cảnh tuy sung sướnghoan lạc nhưng một thời gian sau, hai người cảm thấy nhớ nhà, nhớ nhân gian nên muốn quay về. Khi chia tay hai tiên nữ Ngọc Kiều và Giáng Tiên, hay chàng hứa sẽ quay trở lại. Về đến quê cũ hai người thấy ngôi làng ngày xưa nay đã đổi thay, tiêu điềuhoang vắng, không giống như ngày hai người ra đi. Làng xóm toàn người xa lạ, không còn ai có thể nhận ra hai chàng Lưu - Nguyễn. Tìm người để hỏi thì chỉ thấy một cụ già. Cụ già cho biết cách đây bốn trăm năm, cụ có một ông tổ bảy đời tên là Nguyễn Triệu, nhân tiết Đoan ngọ vào rừng hái thuốc rồi biệt tích. Bấy giờ Lưu - Nguyễn mới biết một ngày trên tiên giới bằng một năm ở trần gian. Những người cùng thời với hai chàng nay đã trở thành quá xa xưa. Hai người bơ vơ, bàng hoàng, nuối tiếc bèn tìm trở lại động Thiên Thai. Nhưng thương thay, cửa động đã khóa tự bao giờ, lối cũ vườn xưa nay không còn dấu vết. Mịt mù sương giăng đầu núi, cỏ xanh tràn lấp không tìm thấy lối về. Tất cả chỉ còn là bóng hình trong trí tưởng, chỉ còn lại mảnh trăng non lạc loài, chơi vơi cùng năm tháng. Cảm tác từ câu chuyện trên, thi sĩ Tản Đà đã làm bài thơ Tống Biệt với những câu:

.. Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi!
    . . . . . . . .
Cửa động
Đầu non
Hình bóng cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.

Ta thấy Lưu Thần - Nguyễn Triệu muốn quay về cả hai nơi: quê cũ ở nhân gian và động Thiên Thai, nhưng thật nghiệt ngã, cả hai nơi ấy đều trở thành xa lạ, đều trở thành mơ, chỉ còn mù mịt kỷ niệm và cuối cùng hai chàng không có lối về. Dưới cái nhìn của đạo Phậtchúng ta từ "nguồn linh tánh giác" lưu lạc vào cõi tử sinh, nhưng vẫn có con đường cho chúng ta trở lại. Và con đường trở lại ấy rất ngắn. Có điều chúng ta có muốn trở lại hay không mà thôi. Không những kinh điển Đại thừa đề cập đến vấn đềnày, mà ngay trong truyền thống Thiền cũng đã nói lên rất cụ thể và dễ hiểu. Đây là con đường ngắn nhất để chúng ta trở về "động tiên". Dĩ nhiên, đây không phải là chốn Đào nguyên của Lưu Thần - Nguyễn Triệu, mà động tiên để chúng ta trở lại là suối nguồn tự tâm.

Các truyền thống thiền của Phật giáo dù là Nguyên Thủy hay Đông Độ có mở ra cho chúng ta một con đường để đến được đầu nguồn của sự sống, đó là con đường thiền tậpBước đầu ta tập chăm chú vào hơi thở cho thân không còn trạo cử, và cũng làm cho chính hơi thở trở nên nhẹ nhàng hơn. Đây là phương pháp thực tập căn bản đầu tiên để đem tâm về lại với thân. Khi thân và tâm về lại một mối, yên tĩnh, quân bình là ta có thể ý thức được một cách sâu sắc mọi trạng thái của thân hànhThực tập được bước căn bản này là chúng ta đã thiết lập một chân đế vững chắc cho sự tu học. Khi chúng ta thực tậpquán niệm thân hành đạt đến mức thuần thục thì việc thực hành quán niệm về cảm thọquán niệm về tâm hànhquán niệm về các pháp cũng sẽ dễ dàng thành côngNiệm thân không thành thục thì niệm thọniệm tâmniệm pháp cũng không thể thành thục được. Không có một vị thiền sư, vị thầy nào giỏi mà không đi ngang qua bước căn bản này.

Đây là điều mà ai trong chúng ta cũng có thể thực tập được, kinh nghiệm được. Khi chúng ta để tâmquán niệm toàn thân, mời tánh biết của mình ở lại với thân là ta đã kích thích từng tế bào trong thân mình sống dậy, khiến trở nên linh hoạt và bén nhạy hơn. Một khi chúng ta chưa làm chủ được thân, chưa là cho thân an thì không thể làm chủ được tâm, làm cho tâm an được. Đó là phương pháp nhiệm mầu để nuôi dưỡng chính mình; nuôi dưỡng thân, nuôi dưỡng tâm, nuôi dưỡng cảm thọ.

Cảm thọ là một tâm hành luôn có mặt trong đời sống của chúng ta. Không có con người nào không được nuôi dưỡng bằng cảm thọ. Trong lãnh vực tâm lý, người ta đã xác định rõ điều này. Một người bị bệnh tim, nhưng nếu có tình yêu thực sự trong lòng, người ấy cũng sống được rất lâu. Vì vậycảm thọđứng về mặt tích cực, nó có năng lực rất lớn và mầu nhiệm; nó có thể vực dậy được hình hàinuôi dưỡng thọ mạng. Trong chúng ta chắc chắn có nhiều người đã từng nếm qua cảm thọ hỷ lạc, và cảm thọ này có công năng kéo dài lòng nhiệt tình tu tập của chúng ta. Có những niềm vui làm cho người ta hưng phấn suốt đời người. Có khi người sắp chết nhưng cảm thọ thương yêu đến với họ, nẩy sinh trong trái tim họ thì cũng có thể kéo dài sự sống thêm nhiều năm. Thực tế cho thấy đời sống con người phần lớn được nuôi dưỡng bằng cảm thọ.

Thôi Hộ là nhà thơ nổi tiếng vào đời Đường (Trung Quốc). Ngày nọ, Thôi Hộ đi đến một vùng quê loạn lạc, ghé vào nhà kia xin nước uống. Một cô gái mở cửa đưa cho chàng ly nước. Giữa nắng xuân, dưới hàng hoa đào, đôi má người con gái rực hồng, thắm còn hơn màu hoa. Người thơ bàng hoàng, ngẩn ngơ, ngây dại trước nhan sắc thiếu nữ. Và người con gái cũng cảm thấy lòng mình rung động. Sau đó chàng thi sĩ giã từ, về lại kinh thành. Năm sau, cũng vào mùa hoa đào nở, Thôi Hộ trở lại chốn cũ tìm người con gái năm xưa nhưng không gặp, chàng để lại bốn câu thơ đề trên vách. Năm sau chàng lại về, cũng hàng đào tươi thắm trong gió xuân, nhưng không gian, cảnh vật đượm màu tang thương. Chàng nghe có tiếng khóc cụ già trong nhà, lần hỏi thì được biết, người con gái trở về sau chuyến tản cư, nàng đọc được những câu thơ rồi lòng luôn ngày đêm trong ngóng, đợi chờ người đề thơ nhưng chờ hoài chẳng thấy; nàng vừa mới qua đời. Chàng cho biết mình là người làm bài thơ và xin được vào thăm. Ngồi xuống bên người con gái vừa nhắm mắt, những giọt nước mắt của chàng đã nhỏ xuống. Kỳ diệuthay, người con gái tỉnh dậy. Và chúng ta có bốn câu thơ bất hủ truyền lại đến tận bây giờ:

Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.


Hôm nay năm ngoái cửa cài
Hoa đào ánh với mặt người hồng tươi
Nay người chẳng biết đâu rồi
Hoa đào còn đó vẫn cười gió đông.

    (Trần Trọng Kim dịch)
Rõ ràng cảm thọ không chỉ nuôi dưỡng đời sống mà còn khả năng cứu sống con người. Thế nhưng, điều quan trọng chúng ta cần chia sẻ ở đây đó là làm thế nào khi cảm thọ có mặt thì sự quan sátnhận biết của chúng ta cũng tức thì có mặt. Nếu không chúng ta sẽ bị cuốn trôi, mất mình vào các cảm thọ. Một người có mặt nơi trần gian đã được tạo hóa cài sẵn trong họ loại cảm thọ hạnh phúc. Tuy vậy, bất cứ lúc nào chúng ta đón nhận hạnh phúc, đón nhận niềm yêu thương thì khổ đau, bất toàn cũng sẽ có mặt. Ấy là điều tự nhiên.

Thế nên, trên con đường về nguồn, nếu thông minh thì chúng ta không để mình chìm vào những cảm thọ vui buồn. Nói như thế không có nghĩa là đời sống chúng ta không được quyền thưởng lãm những vui buồn của nhân thế, mà ở đây có điều khác biệt; người tu chúng ta là chứng nhân nhận biết cảm thọvui buồn, mà không phải là cảm thọ vui buồn. Như vậy là ta đã tìm được con đường về với nguồn linh tánh giác của chính mình.

- HẾT -
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/10/2014(Xem: 10419)
Vào ngày 21 tháng Chín, đông đảo công dân từ khắp nơi trên nước Mỹ, và từ nhiều vùng đất khác, sẽ được hội tụ về thành phố New York tham gia vào cuộc diễu hành về sự biến đổi Khí hậu (The People’s Climate March), đây được cho là cuộc diễu hành vì khí hậu lớn nhất trong lịch sử. Cơ hội trực tiếp cho cuộc diễu hành là sự tập hợp của các nhà lãnh đạo thế giới tại Liên Hiệp Quốc dành cho một hội nghị thượng đỉnh về sự khủng hoảng khí hậu được triệu tập bởi Tổng thư ký LHQ. Mục đích của cuộc diễu hành là báo cho các nhà lãnh đạo toàn cầu biết rằng thời gian để từ chối và trì hoãn đã qua, chúng ta phải hành động ngay nếu chúng ta muốn bảo vệ thế giới chống lại sự tàn phá về sự biến đổi khí hậu.
12/10/2014(Xem: 11291)
Các nhà văn và nhà báo đều có tầm ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Vả lại, dù cho đời người có ngắn ngủi đi nữa thì những gì đã viết cũng sẽ còn lưu lại hàng nhiều thế kỷ. Trong lãnh vực Phật giáo thì những lời giáo huấn của Đức Phật, của ngài Tịch Thiên và của những vị đại sư khác nhờ được ghi chép lại thành văn bản nên đã được lưu truyền qua những thời gian lâu dài để nói lên tình thương yêu, lòng từ bi và những hành vi vị tha phát xuất từ tinh thần Giác ngộ mà cho đến tận ngày nay vẫn còn giúp chúng ta cơ duyên được học hỏi.
11/10/2014(Xem: 8647)
18 giờ tối ngày 9/10/2014, đông đảo Phật tử, doanh nhân, sinh viên và các bạn yêu đọc sách đã được học hỏi rất nhiều từ thiền sư Minh Niệm, tác giả cuốn sách “Hiểu về trái tim” tại nhà sách Thái Hà ( số 119, C5, phố Tô Hiệu, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Cá nhân tôi cũng vậy. Tôi học được rất rất nhiều. Thầy Minh Niệm đã chia sẻ nhiều trải nghiệm sâu sắc, phong phú của chính thầy đến với những ai may mắn có mặt để giao lưu, để lắng nghe. Đối với rất nhiều người, đó là những điều mới mẻ và hữu ích.
10/10/2014(Xem: 8269)
Vào năm 2004 lực lượng Hồi giáo cực đoan Taliban chiếm toàn bộ khu vực thung lũng Swat, nơi em đang sống bình yên với bố mẹ và hai người em, hằng ngày cắp sách đến trường. Tiếp đó, từ năm 2007, Taliban cấm phụ nữ không nghe nhạc và hạn chế họ lui tới nhiều cơ sở công cộng. Đến 15.01.2009 thì Taliban lại ban hành một sắc lệnh mới cấm các em học sinh nữ đi học, phá hủy khoảng 150 trường học. Thời gian này đài BBC phổ biến một tập nhật ký của một cô gái Pakistan 11 tuổi có tên là Gul Makai bằng tiếng Urdu trên trang Blog của đài BBC. Sau này người ta mới biết được Gul Makai là bút hiệu của Malala Yousafzai.
08/10/2014(Xem: 10170)
Ông Dan Stevenson không phải là một Phật Tử, cũng không theo một tôn giáo có tổ chức nào cả. Ông là một người dân cư ngụ trên đại lộ số 11 ở khu Eastlake của Oakland (California.) Vào năm 2009, khi ông đi vào trong cửa tiệm Ace chuyên bán vật dụng sắt thép dùng trong nhà, ông chợt hứng khởi phát tâm và đã bỏ tiền mua một pho tượng đức Phật bằng đá cao 2 feet (khoảng tương đương với hơn 60 cm). Sau đó ông mang về và gắn tượng Phật này vào một góc đường trong khu gia cư giữa đại lộ số 11 và con đường số 19.
06/10/2014(Xem: 9351)
“The History of Sampan” “Chiếc thuyền này thường xuyên được neo tại đây vốn là chiếc thuyền của người Việt Nam di tản, đã dạt vào bờ này với 167 người lớn và trẻ em vào tháng 5-1980 …May thay một thời kỳ non trẻ đã trôi qua, nhiều kinh nghiệm quý báu đã được tổng kết, người ta đã biết đắn đo hơn khi nói về một thời đã qua. Ngày nay Việt Nam là một cộng đồng hòa hợp tốt đẹp hơn xưa, thậm chí còn là chỗ “thích nghi” cho một số người nước ngoài, là “điểm đến” cho doanh nhân và du khách. Có những điều tưởng như giản đơn nhưng con người cần cả một thế hệ mới hiểu hết. Bài học của hòa hợp dân tộc và lòng cởi mở nhân ái ngày xưa của vua Trần dường như bị quên mất sau nhiều thời kỳ chiến tranh và chia cắt khốc liệt, nay cần phải được ôn lại…
29/09/2014(Xem: 7829)
Không học Phật pháp thì không biết đường nào để giải thoát, nhưng cái thấy trong lúc chứng ngộ – tuyệt nhiên không giống với những gì ta đã học. Tấm bản đồ không phải con đường, càng không phải chỗ mình muốn đến. Nhưng bỏ mất nó thì có mà chết, mà ôm cứng lấy nó cũng chết. Muốn tu học ngon lành, hãy hỏi mấy em hướng đạo sinh cách dùng bản đồ.
26/09/2014(Xem: 12456)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền não là tâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận. Và cũng từ đó ánh sáng vô tận khởi hiện. Ánh sáng vô tận trong tâm ta không thể khởi hiện, vì tâm ta chứa đầy phiền não và phiền não đã tạo thành những chủng tử phân biệt và kỳ thị vận hành liên tục ở trong tâm ta, khiến cho mạch sống vô tận bị tắt nghẽn.
25/09/2014(Xem: 8835)
Thật may mắn khi tôi có duyên lành tham gia khóa thiền 2 ngày cuối tuần 20 và 21 tháng 9 tại Sóc Sơn với sự hướng dẫn trực tiếp của Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng – người đã có trải nghiệm về thiền hơn 10 năm nay và đã hướng dẫn nhiều khóa thiền rất có hiệu quả. Hai ngày của khóa thiền mang tên “Tôi làm việc tôi hạnh phúc” thực sự thay đổi tôi mà tôi không thể không viết ra đây.
25/09/2014(Xem: 13307)
Thỉnh thoảng tôi đi về quê, để được nằm một mình giữa bãi cát trắng xoá với trăng mênh mông và nghe sóng vỗ, để cảm nhận những gì sâu sắc từ cuộc sống cô tịch của con người. Trong khoảnh khắc ấy, tôi đã nghe từng con sóng từ biển cả thì thầm và ước mơ, rồi đua chen nhau chạy vào bờ để kiếm tìm vùng đất hứa
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]