Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trả Nợ Hay Hiến Dâng

26/08/201722:17(Xem: 5694)
Trả Nợ Hay Hiến Dâng
TRẢ NỢ HAY HIẾN DÂNG
Pháp Thoại Tại Chùa Xá Lợi Ngày 03-10-2006

Sáng nay tình cờ nhìn lên tấm lịch trên tường, tôi thấy một câu thư pháp bằng chữ Việt ghi: "Hai mươi năm xin trả nợ đời".

"Hai mươi năm xin trả nợ đời" nghe sao thật ngậm ngùi! Chợt lòng tự hỏi chúng ta sống ở đây là đang trả nợ hay đang sống một đời hạnh phúc? Chúng ta có thể cho mình đang trả nợ, và cũng có người nói rằng tôi đang sống trong hạnh phúc.

Dù sống trong hạnh phúc hay khổ đau, lúc chiêm nghiệm lại cuộc đời, ba, bốn mươi năm trôi qua, ta thấy mình nợ nhân gian nhiều quá. Cho nên dù đang sống trong cao sang, danh vọnguy quyền tột đỉnh, ta cũng cảm thấy mình đang trả nợ. Trả nợ đời, trả nợ người, trả nợ tình, trả nợ cháu con... Tuy nhiên tùy theocách nhìn và quan niệm về đời sống mà ta có thể xem đó là nợ nần hay là dâng hiến. Và một câu hỏi được đặt ra: Người tu có trả nợ không?

Cách đây nhiều năm, trong bài diễn văn đọc tại buổi lễ khai mạc một khóa tu ở Việt Nam của hòa thượng Thanh Từ, tôi nhớ có câu: "Tôi tự xem mình là kẻ nợ của tăng niTăng ni nào biết đòi thì tôi trả, ai không biết đòi thì tôi không trả". "Biết đòi" là thế nào? Nghĩa là biết đến với ngài, nương vào những điều ngài dạy để tu tập, để nuôi dưỡng tuệ mạng của mình. Đó là biết đòi. Người nào không biết đòi thì ngài không trả, nghĩa là người nào quay lưng lại, không đến với ngài thì ngài không thể trả nợ được.

Nếu nhìn vào đời sống của quý thầy, quý cô ở trên đất Mỹ hay ở tại Việt Namchúng ta thấy họ đều có chung một con đường lo lắngnỗ lựcvất vả để trả nợ hay trả ơnTrả ơn gì? Trả ơn áo cơm của đàn nathí chủơn nghĩa sinh thành của cha mẹ, ơn truyền thống tâm linh mà đức Phật đã dày công gầy dựng, ơn tổ, ơn thầy...

Người tu phần lớn đều sống cuộc đời "an bần thủ đạo", ba y một bát thong dong, ấy vậy mà hiện nay chúng ta thấy quý thầy, quý cô, nhất là những vị trụ trì, luôn phải cố gắng, nhẫn nại, cực khổvô cùng. Các vị ấy vất vả, bận rộn, làm biết bao nhiêu chuyện chắc chắn không phải để truyền sự nghiệp lại cho người thân, anh em ruột thịt của mình. Họ đầu tư công sức, lo lắng nhiều cho việc phát triển tự viện chính là tạo cho các thế hệ tương lai có nơi chốn học hànhtu tập. Dường như các thầy, các cô ở đâu cũng đi chung một con đường như thế.

Đôi khi chúng ta phiền trách việc xây cất chùa viện quá lớn làm hao tốn nhiều tiền của, công sức... Nhưng nếu nhìn sâu hơn ta mới hiểu "kiếp tằm nên phải rút ruột trả nợ dâu", từ bậc hòa thượng lớn cho đến vị thầy tu nhỏ đều có chung một ý hướng như vậy. Nghĩa là muốn đem hết sức mình trong cuộc sống hiện tạithực hiện những điều tiện ích làm quà tặng cho thế hệ kế thừa, và cũng có thể hoằng dương giáo pháp của đức PhậtPhải chăng chúng ta là những người đang trả nợ tình cho nhau? Người ở ngoài đời trả nợ tình khác với người ở trong đạo. Người tu trả nợ tình là trả nợ đàn na thì chủ, nợ tổ, nợ thầy. Xa hơn nữa là tâm nguyện gửi lòng mình trả ơn đức Phật - người đã gầy dựng nên dòng chảy tuệ giác mà ta được thừa hưởng và tu tập ngày hôm nay.

Ngày còn ở quê nhà, có lần tôi được một người Indonesia gốc Trung Hoa, chủ hảng Fuji Film mời đến thuyết giảng về Tam quiNgũ giới cho một số công nhân làm việc tại đó. Sau thời thuyết giảng, anh ngỏ ý mời tôi qua đảo Ga-lăng hay Pi-đông (ở Phi Luật Tân) đặt viên đá xây chùa. Tôi cười nói: "Anh là người ngoại quốc tại sao lại có ý xây dựng chùa Phật giáo (Việt Nam) ở một hòn đảo hoang vắng, xa tít mù, không liên hệ gì đến anh như thế?" Anh trả lời: "Thưa thầy, con có một phát nguyện là nơi nào có hình bóng đức Thế Tôn, nơi nào có tự viện dù lớn hay nhỏ con đều muốn tôn tạo để nơi đó trở thànhchứng tích của đạo Phật".

Lòng nhiệt thành, mối quan tâm đối với đạo Phật của một người Indonesia sống trên một đất nước Hồi giáo không liên hệ gì đến người Việt đã biểu lộ anh là một con người có văn hóa, có một tâm thức thiện lành thật dễ thương. Người xưa thường dạy rằng phát tâm xây dựng già lamtự viện thì công đức vô lượngCông đức này chắc chắn dẫn đến một đời sống phúc lộc đầy đủ, kiếp lai sinh có thể được làm quốc vương.

Ta có thể nói nơi nào ngôi chùa Việt Nam có mặt là biểu hiện văn hóa Việt Nam có mặt. Người Việt đặt chân lên vùng đất này quy tụ lại thành cộng đồng. Niềm tự hào của chúng ta không chỉ là sự phấn đấu hội nhập được vào cộng đồng của bản địa để thành đạt sự nghiệp vật chất hay xã hội như những người di đân khác, mà chúng ta còn tự hào mình là người Việt có một nền đạo đứcvăn hóa trên bốn ngàn năm rất đặc sắc và nền đạo đứcvăn hóa ấy đã nuôi dưỡng bản chất con người Việt Nam qua bao thế hệ. Hai nghìn năm trở lại đây, chúng ta đã được thấm nhuần giáo lý đạo PhậtĐạo Phật đã có những đóng góp rất lớn vào nền văn hóa Việt, từ ngôn ngữ sử dụng hàng ngày cho đến cách hành xử của chúng ta đều phảng phất tinh thần đạo Phật. Do vậy người Phật tử Việt Nam đi đến bất cứ nơi nào cũng quan tâm đến việc xây cho được một ngôi chùa là điều tự nhiên:

Mái chùa che chở  hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông
    .
Hai câu thơ của nhà thơ Huyền Không cho ta thấy rõ gốc rễ, nguồn cội của chúng ta. Ta cần phục hồi lại gốc rễ vô minh của mình. Gốc rễ của mình là người Việt với văn hóa Việt. Dù cho ở đâu hay theo một tôn giáo nào ta vẫn không thể chối bỏ được gốc rễ Việt Nam của mình. Ta không thể để mình biến mất vào dòng chảy của xã hội người, đất nước người, vì chúng ta vẫn là dân da vàng. Ví dụ như ở Mỹ chẳng hạn, chắc gì người Mỹ chấp nhận ta là dân Mỹ thực sự (có vào quốc tịch Mỹ thì chúng ta là người Mỹ gốc Việt). Người Mỹ dù đang được thụ hưởng một nền văn minh tiến bộ nhất hành tinh, nhưng mầm mống kỳ thị vẫn nằm sâu trong tâm thức họ.

Bởi vậy, tự thân chúng ta chưa bắc được nhịp cầu cảm thông, chưa hòa nhập thực sự vào dòng sinh hoạt của xã hội Mỹ thì chùa chiền, tự viện là nơi hay nhất dẫn dắt ta đến gần đời sống tâm linh, nhất là cho giới trẻ. Hiện nay thế hệ trẻ người Việt tại Mỹ chưa thấm nhuần văn hóa Việt, và nếu có cũng rất ít, trong khi ảnh hưởng văn hóa Mỹ lại rất sâu đậm. Làm sao ta có thể trông cậy vào các cháu trong sự bảo tồn cũng như hãnh diện với di sản văn hóa Việt Nam? Những người già rồi sẽ ra đi, nên việc giữ gìn, phát huy văn hóa Việt Nam là ở thế hệ tương lai. Chúng ta phải làm thế nào để tạo nhịp cầu nối giữa hai thế hệ, tạo điều kiện để có sự gần gũi, hòa thuận trong nếp sống của một gia đình Việt. Hãy gieo vào tâm thức các con cháu ta hạt giống hiền thiện, yêu thương ngay từ khi tâm hồn còn thơ dại. Nếu chưa thể làm cho các cháu thấm nhuần đạo Phật, thì ít nhất ta hãy tập cho chúng đến gần với không khí của tự viện, chỉ dạy chúng cách thực hành những điều căn bản của đạo Phật trong đời sống hàng ngày. Các bậc phụ huynh có bổn phận và trách nhiệm truyền trao tinh thần tu họctinh thần dân tộc cho con em mình. Đừng nghĩ những hạt mầm mình gieo là vô ích. Một mai kia bước vào đời gặp phải những khó khăn, vấp ngã, chúng sẽ nhớ đến những gì đã được chỉ dạy, nhớ đến giáo lý đạo Phật đã từng được nghe, nhớ về mái chùa ngày nào..., và sẽ tự tìm về nguồn cội của chúng.

Để giới trẻ cảm thấy vui thíchthoải mái khi đến chùa, chúng ta cần có những sinh hoạt riêng cho họ tùy theo trình độ, tuổi tác. Ngoài ra ta cần đơn giản các mặt nghi lễthờ cúngbái sámtụng niệm... Ta không thể áp dụng một cách nguyên chất hình thức sinh hoạt theo truyền thống Phật giáo Việt Nam trên đất nước này, vì như vậy tầng lớp thanh thiếu niên trẻ cảm thấy không thích hợp rồi trở nên dị ứng và sẽ rời xa. Và nếu các sinh hoạt cũng như giảng dạy Phật pháp chỉ tập trung đáp ứng cho những người già, những người lớn tuổi là chúng ta đẫ không nhìn xa vào thế hệ trẻ - thế hệ của tương lai và vô tình đẩy chúng tìm đến con đường hướng ngoại.

Chúng ta cần mạnh dạn và khéo léo để thay chuyển mình. Không thể có một "đạo Phật riêng" cho người Việt Nam trên đất Mỹ. Đạo Phật đi đến đâu là đều phải chuyển mình thích nghi với môi trường địa lý, hoàn cảnh văn hóa và tập tục của địa phương. Khi chuyển đổi được như thế thì đạo Phật mới thực sự có mặt và đóng góp những lợi ích lớn lao cho cộng đồng người bản địa và cộng đồng người Việt tiếp nốitrong tương lai. Điều này trong quá khứ đạo Phật đã làm được. Điển hình là đạo Phật ở Trung Hoa.

Du nhập vào Trung Hoa theo dòng chảy của sự phát triển, đạo Phật đã hoàn toàn hòa mình vào văn hóanếp sống, lối suy nghĩ cho đến mọi hình thái nghệ thuật của người Trung Hoa. và rồi đạo Phật bám rễ vững chắc vào vùng đất mới, hình thành một đạo Phật Trung Hoa thật đặc biệt. Có lẽ khi nào chúng ta đến sinh sống nơi đây với gốc rễ bốn ngàn năm văn hiến, với hạt mầm đạo Phật thật sâu dày, chúng ta không làm được một điều gì để trả nợ hay hiến dâng cho người một tặng phẩm.
Chúng ta hãnh diện về người Việt sống trên đất Mỹ đã đóng góp ít nhiều cho thành tựu trên mọi lãnh vực từ khoa học, kỹ thuật, giáo dục...; điều đó cho thấy không phải chúng ta đến đây chỉ vì miếng cơm, manh áo. Điều quan trọng nhất của chúng ta là làm thế nào để cho người bản xứ hiểu được chúng tamuốn hiến tặng tinh thần đạo đức Đông phương và tuệ giác của đạo Phật cho họ. Làm được điều này là chúng ta không đánh mất gốc rễ, không "biến" thành người Mỹ. Chúng ta có thể vững chãi tự tin không che dấu nguồn gốc của mình. Chúng ta có thể đứng ngang hàng hoặc trực tiếp đối thoại với người, vì mình vốn có một nền tảng văn hóa đặc trưng, một bản chất thấm nhuần đạo đức và một cội nguồn tâm linh là giáo lý đạo Phật.
Thiết lập nền tảng tâm linh, đem đạo đức của xã hội Đông phương củng cố đời sống gia đình cho xã hộiTây phương là chúng ta đang trả ơn, đang dâng hiến cho đất nước đã cưu mang mình một món quà quý giá, bởi đó là những gì họ đang thiếu, mặc dù đời sống văn minh vật chất của họ dư thừa. Thế nên, sự có mặt của các sinh hoạt chùa chiền, tự viện mang nét đặc thù văn hóa Việt Nam là rất quan trọng. Ta cần làm cho đạo Phật có mặt, làm sao cho thế hệ trẻ người Việt và người Mỹ có được niềm tin sâu chắc với chánh pháp, làm sao cho họ biết thực tập để nếm được an lạchạnh phúc chân thật. Được như vậy chắc chắn gốc rễ đạo Phật sẽ bám sâu vào lòng đất Tây phương.

Hạnh phúc của chúng ta không chỉ là làm ra tiền, có tài sản lớn. Chúng ta cần có những người con kế thừa thông minh, tài giỏi và đạo đứcHạnh phúc gia đình có mặt chính là nhờ sự quan tâm của chúng tađến với người thân, ta cần dành thêm thì giờ chăm sóc con cháu để tương lai đi vào đời chúng không mang theo mặc cảm thua kém, sợ sệt. Vị ngọt của hạnh phúc cũng chính là sự san sẻ. Nói một lời dễ thươngchịu khó lắng nghe, ấy là sự tu tập gần nhất và ai cũng có thể làm được. Trong gia đìnhchúng ta có thể hiện sự kiên nhẫn của mình khi dạy các con hay không? Thông thường cha mẹ chỉ thương những đứa con hiền, ngoan, dễ dạy; những đứa trái ý mình, tìm mọi cách dẫn giải lý do này nọ để đối kháng thì mình không thương nhiều. Do vậy, chúng ta cần nhìn lại cách nuôi dạy con cái và cách ta hành xử với người thân. Đôi khi, tuy ta sống với nhau bằng tình thân, nhưng vẫn hay tranh chấp, kèn cựa, đôi lúc chỉ một lời nói nặng cũng đủ làm cho người khác đau khổ rồi. Chúng ta đã từng làm như thế và người kia cũng vậy. Cuối cùng chỉ đưa đến buồn khổ, giận hờn. không muốn nhìn mặt nhau. Những lúc như vậy, chúng ta hãy lập tức quay nhìn lại tự mình để tập chế phục tâm hành tiêu cựcchế phụccơn giận.

Khi cơn giận bừng lên, chúng ta có thể làm một việc giản dị là không nói gì cả, đi vào phòng và đóng cửa lại. Khi ngồi yên được để quan sát tâm hành của mình, ta sẽ thấy lửa giận đang bừng cháy, tim đập rất nhanh, hơi thở nặng nề, mệt mỏi và tâm thức đầy xao động bất an. Ta hãy thầm nhủ: "Tội nghiệp mình quá! Giận là tự sát". Và hình như cơn giận bắt đầu dịu xuống... Đó là phương pháp điều phục cơn giậnĐiều phục được cơn giận là điều phục được nỗi buồnđiều phục được mọi cảm thọ. Xét cho cùng, giận chỉ là một cảm thọ của tâm, mà ta là người nhận biết, là người đang quan sát cơn giận. Nếu có một chút kinh nghiệm tu tập, ta sẽ nhận rõ sự giận hờn có cùng một nhịp điệu vận hành như thiên nhiênvũ trụ; nó cũng thành, trụ, hoại, không, như cây cỏ nẩy mầm, ra lá cho hoa kết trái rồi úa tàn, rơi rụng.

Tôi xin kể một kinh nghiệm điều phục cơn giận, và đây cũng là câu chuyện vui. Trong chùa tôi vào mùa hè, có một bà cụ hay trồng bắp cho chùa. Khi bắp có trái thì ai muốn ăn cũng được; không hỏi, không mời bà một tiếng nào mà bà vẫn cười rất tươi. Tâm bà tốt vô cùng. Nhưng một hôm, ni sư trụ trì, vốn là con gái của bà, vô tình dẫm chết mấy cây ớt bà trồng trên vuông đất nhỏ dưới tàng cây cà phê. Thế là bà càu nhàu từ chiều đến tối, kể lể đủ thứ chuyện, rằng mảnh đất do bà mua, toàn bộ nay không thuộc về bà nữa, bà chỉ còn chút rẻo đất để trồng ớt mà cũng bị dẫm chết... Ai nghe cũng cảm thấy khó chịu. Tôi nghĩ chắc bà sẽ nói đến khuya nếu không làm cho bà im tiếng. Tôi liền bảo: "Tôi có trồng ít cà phê trong chùa, nếu bà cần đất rộng thì tôi chặt hết cà phê để trả lại đất cho bà. Vậy bà khỏi rầy rà nữa nhé". Nói là làm liền. Tôi lấy cưa ra cưa hết mấy cây cà phê. Bà hốt hoảng: "Thôi, tôi lạy ông, tôi không nói nữa, tôi không nói nữa".

Sáng hôm sau, tôi được nghe bà tâm sự với ni sư con gái của bà là "Ông thầy này nóng còn hơn lửa. Người tu hành gì mà sân si quá! Mới nghe cằn nhằn mấy tiếng mà ngay tối hôm qua ổng chặt trụi mấy cây cà phê".

Đôi khi có những chuyện lớn như con voi mà ta vẫn nhịn được, nhưng có khi lại nổi cơn giận với một việc rất nhỏ như trường hợp của bà cụ mà tôi vừa kể. Có những chuyện nhỏ nhoi không đáng gì, thế mà ta cực lòng lo nghĩ, tính toán đủ thứ rồi giận hờn không đâu. Bài học từ bà cụ nói trên có thể giúp ta quy chiếu lại tự hỏi mình: Có phải ta đã từng làm như vậy? Nếu ta có khả năng buông bỏ mọi việc trên đời thì bất cứ điều gì xảy đến cũng sẽ qua đi rất nhẹ nhàng, việc lớn có thể chuyển thành nhỏ và việc nhỏ trở thành không có gì. Ở đây có một điều ta cần nhớ: giận chỉ là một trong những cảm thọ của tâm. Ta thường lầm lẫn xem cảm thọ là mình, lầm lẫn này tuy nhỏ nhưng mang đến tác hại rất lớn, bởi vì nó sẽ dẫn dắt hành xử của ta dựa vào cảm thọ đó.

Xét cho một cách thấu đáo, vạn vật từ tài sản, nhà cửa, xe cộ thuộc sở hữu của con ngườicho đến cỏ cây, đất đá, cầm thú, côn trùng... trong thế giới tự nhiên, tất cả đều đi theo con đường sinh, trụ, dị, diệt và cái gần nhất là thân ta cũng đi theo một tiến trình như vậy. Mặc cho chúng ta có chăm sóc thân thểthật kỹ bằng những phương tiện y học hiện đại thì tóc cũng sẽ đổi màu, da sẽ không còn tươi nhuận, sức khỏe ngày càng suy giảm. Ngành y khoa thẩm mỹ dù tiến bộ đến đâu cũng không giữ cho con người được trẻ mãi, cũng không đem đến cho chúng ta đời sống bất tận.

Bước vào sâu hơn nữa, vui buồn, khổ đau, hờn giận... cũng chỉ là những sở hữu của ta. Tại sao gọi là sở hữu của ta mà không phải là ta? Thử nhìn kỹ lại ta, sẽ thấy những vui, buồn chợt đến rồi đi; những sầu khổbất an hay hân hoanhạnh phúc cũng chẳng ở lâu với chúng ta bao giờ. Ai mà không muốn giữ lại niềm vui dài lâu cho mình? Thế nhưng trong niềm vui đã cài sẵn nỗi buồn và có hạnh phúc nào mà không thấp thoáng bóng dáng sầu khổ bên trong. Vậy cái gì gọi là thật? Cái gì là ta?

"Quay về nương tựa Phật" là quay về nương tựa nguồn tuệ giác nơi chính mình; chúng ta nguyện quay về làm phát khởi tâm Bồ đề, làm tỏa sáng tâm Phật của mình. Cái gì là tâm Phật tỏa sáng của mình? Xin lấy ví dụ, khi mình giận, thì giận là cảm thọ đến đi, sinh diệt. Nhưng khi nhận biết ta đang giận thì cái "nhận biết" cơn giận đó không đến đi, không sinh diệt. Nó vẫn thường hằng, vẫn luôn có mặt. Sự nhận biết này có hai bước để ta thấu hiểu và thực tập. Thông thường, lúc đầu ta nhận biết bằng tiếng nói của ý thức: "Đây là cơn giận có mặt"; và sự nhận biết này có tiếng nói thì thầm. Nhưng khi thực tập quán chiếu đã quen, ta không cần nói thầm nữa. Khi cơn giận biểu hiện, ta chỉ cần hồi tâm nhận biết cơn giậnđang có mặt, tức khắc cơn giận là cái bị ta nhận diện. Và ta lúc đó chính là năng lượng tỉnh sáng, nhận biết cơn giận ngay hiện tại, chứ không phải là cơn giận. Khả năng nhận biết không lời ấy là năng lượnggiác ngộ vốn có bên trong mà lâu nay mình bỏ quên. Vì quên nên ta thấy mình là cơn giận, là nỗi bất an... và thương ngập lặn, nổi trôi theo dòng sông cảm thọ. Nếu thực tập sâu sắc, luôn nhớ mình là người đứng trên bờ nhận diện mọi tâm hànhcảm thọ đang diễn hành, đến đi liên tục là ta cắt được dòng chảy sinh tử luân hồi và lúc nào cũng an trú trong vùng trời "tâm bản nhiên" của chính ta. Chúng tatu tập là mời gọi năng lượng chánh niệm biểu hiện ra để biết dừng lại. Nếu biết thực tập dừng lại quán chiếu trong khi nói, khi làm, chắc chắn đời sống chúng ta sẽ thể hiện được phẩm chất thanh cao, an bình; tạo được môi trường đẹp đẽ để nuôi dưỡng người thân của mình và mọi người chung quanh.

Sống như vậy, người ta "hai mươi năm xin trả nợ đời", còn mình dù có bốn mươi hay năm mươi năm trên đời cũng không phải trả nợ gì. Bởi vì đời sống chúng ta một khi biết sống và tu tập sâu sắc, đó chính là tặng phẩm ta dâng cho đời, cho người và cho nhiều thế hệ tương lai. Mỗi ngày chúng ta trong đời sống là một sự hiến dâng. Nguyên tắc là muốn tặng quà thì phải có quà mình mới tặng được, trong lòng có tình thương, mình mới tặng cho người món quà tình thương, lòng có an vui mới tặng được an vui cho người. Cho nên khi cùng thực hiện một việc, cùng tiêu tốn năng lượng và thời gian như nhau, nếu làm với tâm thức trả nợ thì ta sẽ cảm thấy mệt mỏi, nặng nề, chán nản, phiền muộnbất an; nhưng với tâm nguyện hiến dâng, phục vụ thì lòng mình sẽ thênh thang, an vui và hạnh phúc. Nếu ta quan niệm như câu hát "hai mươi năm xin trả nợ đời" thì không những hai mươi năm, mà cả đời ta sống cũng chỉ để trả nợ. Trả nợ cả đời thì quả thực bất hạnh vô cùng!

Giáo lý đạo Phật chính là phương thuốc có công năng chữa căn bệnh tử sinh ngàn đời của con người. Đời ta trầm luân gánh nặng mang hoài, nếu không gặp được chánh pháp đức Phật thì làm sao ta biết được con đường thực tập để chấm dứt dòng phiền não sinh tửMay mắn trong kiếp sống này, ta có nhiều bậc thầy xuất hiện, tặng cho món quà quý báu là pháp hành của Phật. Nhận lấy món quà này, nếu thực tập nghiêm túc ta sẽ điều phục được thân tâmchế ngự được giận hờn, buồn khổ, ganh tị, bất an... đem đến cho ta an bình, tịnh lạc, hạnh phúc ngay trong hiện đời. Xin hãy đón nhận và uống vào những viên thuốc giáo lý của đức Phật để chữa lành căn bệnh ngàn đời của chúng ta. Việc này ai cũng có thể làm được; và chắc chắn trong hiện tạitối thiểu chúng ta cũng sẽ là tặng phẩm cho người thân, cho gia đình và cho xã hội. Bấy giờ tâm nguyện của ta là sự hiến dâng, chứ không phải là tâm hành trả nợ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/05/2021(Xem: 12833)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5648)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5141)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5344)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4705)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4389)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4938)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4433)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3847)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 7103)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]