Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trân Quý Từng Hơi Thở

26/08/201722:14(Xem: 5816)
Trân Quý Từng Hơi Thở
TRÂN QUÝ TỪNG HƠI THỞ 
Pháp thoại tại chùa Phật Tổ Ngày 11-05-2008

Có một câu chuyện rất hay trong Tiểu Bộ Kinh đề cập về các pháp môn tu có thể giúp chúng ta thực tập để cuộc sống của mình được hạnh phúc và an lạc.

Có một vị sa môn cư trú gần bờ biển, thầy tu tập rất tinh chuyênnên được cả thôn làng cúng dường đầy đủ không thiếu một vật gì. Thầy nghĩ chắc mình đã chứng được Thánh quả (A la hán). May mắn cho thầy, có một vị Thiên nhân trong kiếp quá khứ từng là bà con với thầy, hiện xuống cho biết: "Thưa thầy, thầy chưa chứng quả gì hết". Vị sa môn kia nghe vậy giật mình, bèn hỏi: "Thưa Thiên nhân, ai trên cõi đời này đã từng chứng quả A la hán, hay đang trên đường chứng Thánh quả?" Thiên nhân trả lời: "Có một người, đó là đức Thế Tôn ở thành Xá Vệ, người đã thành đạt Thánh vị A la hán. Thầy nên đến đó tham học với ngài". Vậy là thầy ôm bát tới thành Xá Vệ.

Lúc ấyđức Thế Tôn đang đi vào làng khất thực và sa mônBāhiya kia rất nôn nóng nên theo bên cạnh đức Thế Tôn thưa: "Bạch đức Thế Tôn, xin ngài từ mẫn dạy cho con tu học". Đức Phật nói: Chưa phải thời, Bāhiya". Thế nhưng thầy Bāhiya vẫn đi theo bên chân đức Phật. Lần thứ hai thầy thưa: "Xin ngài từ bidạy cho con phương pháp tu học". Đức Phật lại bảo: "Bāhiya, chưa phải thời". Lần thứ ba cũng thế, thầy năn nỉ: "Xin ngài từ bidạy cho con phương pháp tu học, để con có thể chứng đạt Thánh quả A la hán". Lần này, sau khi thọ trai xong, đức Phậtbảo: "Đúng thời rồi, Bāhiya, ta sẽ dạy cho ông". Và đức Phậtthuyết một thời pháp rất ngắn:

"Này Bāhiya, thầy nên tu tập như sau: Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong các cảm thọ, sẽ chỉ là cảm thọ. Trong thức tri, sẽ chỉ là thức tri. An trú được như vậy thì đoạn dứt được sầu khổbất an hiện đời và chứng quả A la hán".

Đức Thế Tôn chỉ dạy một bài pháp ngắn như thế, nhưng thầy Bāhiya là một người rất ham tu, nên nghe lời Phật dạy xong liền đến dưới bóng mát của một cội cây bên đường thiền tọa. Sau đó thì tâm thầy bừng sáng vì đã thấu tỏ được lời dạy của đức Thế Tôn. Thầy ôm bát đi về, trên đường về chẳng may bị bò húc chết.

Đức Thế Tôn sau khi khất thực xong, trên đường trở về tịnh xá, thấy xác của thầy Bāhiya, ngài bảo các vị tỳ kheo: "Các ông hãy để xác thầy Bāhiya lên chõng tre, hỏa thiêu xong thì rải tro đi. Đây là bạn đồng hành, người đồng phạm hạnh của các ông vừa mới ra đi". Sau khi làm tang lễ cho Bāhiya xong, các thầy vân tập lại bên cạnh đức Thế Tôn, thưa: "Bạch Thế Tôn, vị tỳ kheo này vừa mới đến, học với Như Lai một vài câu rồi ra đi, vậy có thể nhập Niết bàn được không?: Đức Phật xác nhận: "Tỳ kheo Bāhiya đã dứt sạch hết lậu hoặc, chứng Thánh quả A la hán và đã vào Niết bàn".

Câu chuyện ngắn này cho chúng ta đôi điều về bài học của sự thực tập. Thầy Bāhiya chỉ trong một lầnnghe bài pháp ngắn của đức Thế Tôn mà đã quán chiếutu tập thành công. Nội dung này rất quan trọng và rất cần cho chúng ta trong việc học hỏi và thực tập lời Phật dạy.

"Cái thấy chỉ là cái thấy, cái nghe chỉ là cái nghe, cảm thọ chỉ là cảm thọ, thức tri chỉ là thức tri. An trúnơi pháp quán ấy thì có thể đoạn dứt sầu khổthành tựu an lạc". Có thể an lạc của sự chứng nghiệmNiết bànchứng nghiệm giải thoát vẫn còn xa, nhưng điều chúng ta cần thực hiện trong đời sống bình thường là làm sao cho sầu khổ, buồn giận... rụng rơi. Thực tập được như vậy thì chúng ta có thể sống giữa cuộc đời, giữa lòng người vốn đầy khó khăn, phiền trược, bất toàn... mà vẫn có thể an nhiêntự tạiChúng ta hãy thực hành ngay trong cuộc sống thường nhật. Vào những ngày rảnh rổi, hãy dành một ít thì giờ để ngồi yêntoàn thân thư giãn và chú ý đến hơi thở của mình - chú tâm trên mỗi hơi thở vào, mỗi hơi thở ra. Phương pháp thực tập đơn giản, gần nhất là nhận biết hơi thở đi vào, đi ra bên trong cánh mũi. Chỉ đơn thuần nhận biếtquán sát hơi thở vào, hơi thở ra như vậy mà không để ý thức nhận xét gì về hơi thở.
Mọi thưởng thức về phương diện vật chất cho ta sự thoải máithích thú đều là những cảm giác phù phiếm ở bên ngoài. Ta hãy biết quay về thưởng thức cái sẵn có trong mình, như hơi thở chẳng hạn. Khi biết quay về thực tập quán sát hơi thởlợi lạc đầu tiên là chúng ta có thể làm cho hơi thở mình càng ngày càng êm dịu, nhẹ nhàng, khiến cho hơi thở mình trở nên có phẩm chất, nhờ đó mà thân tâm được nuôi dưỡng, tật bệnh được đẩy lùi, và cuối cùng đạt đến công năng kỳ diệu nhất đó là thanh lọc, chuyển hóa được tâm mình. Khi tâm mình xao xuyến bất an, ta chỉ cần làm một việc đem tâm về an trú nơi hơi thởnhận biết rõ ràng hơi thở đi vào - đi ra là ta có thể lấy lại được sự cân bằng, thư thái của thân và tâm. Nếu có người đưa đến cho ta chuyện phiền não, buồn giận, ta hoàn toàn có khả năng làm được hai điều cùng lúc: việc đầu tiên là ngồi yên lặng, giữ tâm thật bình tĩnh để nghe; thứ đến, ta hãy để tất cả những lời nói kia đi qua đi lại như gió đi ngang qua mành lưới. Đó là cách tu hạnh Bồ tát. Thử nghĩ, nếu có một người chịu khó nghe ta chia sẻ, cho ta trút hết nỗi khổ niềm đau thì ta đâu cần làm gì nhiều mà vẫn giúp cho tâm tư nhẹ lại, nỗi khổ dần vơi đi hoặc thậm chí tan biến. Đây là vấn đề thường xảy ra trong gia đình của chúng ta.

Thực tập hạnh Bồ tát để có thể ngồi yên lắng nghe được những gì người kia muốn nói với mình là ta cũng đang thực sự lắng nghe từng hơi thở, từng cảm thọ đang biểu hiện trong mình. Lúc bấy giờ trong ta "sự nhận biết tỉnh sáng" đang có mặt, chứ không đánh mất mình hay bị cuốn hút theo những buồn phiền, giận hờn... mà người kia đang biểu lộ với mình. Chúng ta nghe như thế nào để vừa có thể phòng hộ được thân tâm mình, vừa cảm thông sâu sắc được với nỗi khổ, niềm đau của người đối diện, đó là cả một sự thực tập công phu. Thế thì chúng ta đã có một phương pháp tuyệt vời đó là vừa giúp người kia giải tỏa được nỗi buồn giận và đồng thời làm cho năng lượng thực tập tích cực của mình được thăng tiến, hóa giải được những tâm hành tiêu cực trong đời sống: "Hãy nghe như chỉ là nghe, thấy như chỉ là thấy, cảm thọ vui buồn chỉ là cảm thọ vui buồn", mà đừng tưới thêm gì từ ý thức vào nữa cả. Đây là phương pháp tu tập rất mầu nhiệm và chỉ cần thực tập ngần ấy thôi cũng đủ làm cho chính ta, đời sống gia đình ta, người thân xung quanh ta trở nên an vui, hạnh phúc.

Có một bà cụ Phật tử tín thuận Tam Bảo rất sâu sắc. Khi qua Mỹ, vì lớn tuổi không làm gì được nên bà bỏ thời gian mấy mươi năm nương vào chùa để vừa được tu tập vừa làm công quả, cũng như làm những việc từ thiện xã hội. Nhưng bất ngờ bà bị tai biến mạch máu não. Con cái lo chăm sóc tận tình cho đến ngày bà đi đứng lại được, nhưng những ngày gần cuối đời, tánh tình bà thay đổi hoàn toàn. Bà trở nên rất hay nóng giận, vung vãi những lời thô ác, không một ai khuyên nhủ gì được. Bà không còn là con người của những ngày được ở trong chùa nữa. Trường hợp kể trên chứng tỏ cho chúng ta biết một điều rằng nghiệp thức của con người nếu không biết tu tập đúng cách thì không phải dễ chuyển hóa; nó có thể vẫn còn nằm yên đấy do vì chưa đủ điều kiện biểu hiện. Những hạt giống bất an, buồn giận, những lời nói thô ác đã gieo vào trong tâm thức mình, nếu ngay lúc này mình không biết nhận diện để chuyển hóa thì nó vẫn còn nằm nguyên ở đó; và rồi ta vẫn còn có thể bị chi phối bởi những tập khí xưa cũ, vẫn nói ra những lời thô tháo, vẫn đem đến buồn giận, bất an cho mình và cho người. Vì vậy, ngay bây giờ chúng ta hãy thực tập trị liệu bằng cách đem tâm về an trú ngay nơi hơi thởý thức sâu sắc mỗi hơi thở vào, hơi thở ra, làm cho tất cả những cảm thọ vui buồnbực bội theo hơi thở mà dần tan biến, đến lúc chúng không còn chỗ trong tâm thứcChúng ta cần thực hành ngay khi chúng ta còn khỏe mạnh.

Ai ở trong đời cũng đến rồi đi như giấc mộngNếu không khéo tu tập thì trong giấc một đời người chúng ta sẽ chuốc lấy bao khổ đau, phiền lụy và tiếp tục rót thêm vào thân tâm những giọt nước ô nhiễmđộc hạiChúng ta hãy nghe như thầy Bāhiya ngày xưa, chỉ nghe một lời dạy ngắn của đức Phật: "Hãy để cái thấy chỉ là cái thấy, cái nghe chỉ là cái nghe, cảm thọ chỉ là cảm thọ, thức tri chỉ là thức tri", mà ứng dụngthành công trong sự thực tậpPháp môn này ngày xưa các bậc thầy đã từng thực tập và chứng nghiệmđược Thánh quả.

Chúng ta hãy thực tập để chứng nghiệm được sự an lạc ngay trong cái thấy, cái nghe, cái nhìn... bằng sự quay về an trú trong hơi thở của chính mình. Khi thực tập thưởng thức hơi thở của mình từng ngày một cách sâu sắc; ta thấy những gì có mặt trong ta, những gì cuộc sống đã ban cho ta, tất cả đều là quà tặng hạnh phúc. Do vậy, từng phút, từng giây ta hãy biết trân quý hơi thở của mình.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5587)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5501)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6901)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4288)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9117)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5455)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5074)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5670)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6156)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5164)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]