Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có Một Vầng Trăng

26/08/201722:10(Xem: 5997)
Có Một Vầng Trăng
CÓ MỘT VẦNG TRĂNG  
Pháp thoại tại chùa Phật Tổ Ngày 29-03-2008

Cuộc đời của đức Thế Tôn có thể ví như một đóa hoa - đóa Giác ngộ đã nở cách nay 26 thế kỷ, nhưng hương từ bi và trí tuệ vẫn luôn tỏa ngát, ngày càng lan xa, trải rộng đến ba nghìn thế giớinhư một câu mô tả xác đáng trong Thiền Lâm Cú Tập "Nhất điểm hoa mai nhụy, tam thiên thế giới hương".

Chúng ta thường nhìn thấy mặt đại dương tuy mênh môngnhưng sóng cuộc ba đào, nên chưa bao giờ phản chiếu trọn vẹnđược ánh sáng của trăng sao. Thế nhưng có một vỏ sò nhỏ bé, nằm cô đơn yên lặng bên hốc đá với một ít nước bên trong mà vẫn có thể chứa cả không gian thênh thang lồng lồng. Trăng sao, mặt trời, tia nắng... vẫn có mặt trong vỏ sò bé nhỏ ấy. Nằm ẩn mình khiêm nhường trong chỗ khuất, mảnh vỏ sò lạc loài không ai để ý, nhưng hàng ngày với chút nước của trùng dương, nó có thể phản chiếu cả bao la vũ trụHình ảnh đó diễn đạt ý nghĩa"Hoa mai một chút nhụy. Ba ngàn thế giới thơm".

Câu trích dẫn ở trên trong Thiền Lâm Cú Tập khi vừa đọc lên ta nghe đầy chất thơ, nhưng đó không phải là thi ca trừu tượng mà là một điều rất thực trong đời sống chúng taĐời người tu mà chúng ta không thực tập tự làm cho mình tỏa hương lành được thì thật là đáng tiếc.

Chúng ta đến và đi trong nhân gian này, sự có mặt của mình ít nhiều cũng lưu lại một chút gì nơi người khác. Đời sống chúng talành, đẹp hay không thì vẫn lưu lại gần nhất là nơi con cháu mình, nơi người thân của mình, và nó cũng lưu lại trong bằng hữu của mình nữa. Nếu ta có hương thơm thì hương đó sẽ tỏa ra rất rộng. Cũng thếchúng ta dâng tặng cho người niềm vui bằng sự quan tâm chăm sóc thì quả lành sẽ đến.

Tôi có bài thơ làm từ lâu, nó lên những cảm nghiệm của tôi về thân phận con người trong cõi nhân gian. Đây là những câu thơ như một lời tri ân gửi đến hai pháp hữu đã mất, đó là hai Sư Bàở chùa Quán Thế Âm (Đà Lạt). Bài thơ đã may mắn được khắc lên bia mộ mà tôi chỉ nhớ bốn câu sau:

Một cánh nhạn vút ngang trời lặng lẽ
Bong bóng nổi chìm biển cả mênh mông
Từ  chân thân hiện ra cõi bụi hồng
Đến như mộng rồi đi như giấc mộng
    .
Sự có mặt của chúng ta trong cuộc đời này như cánh nhạn lướt qua bầu trời rồi mất hút, hoàn toànkhông để lại một dấu vết. Đại dương luôn dậy sóng xô dạt vào ra, bọt bóng từng đợt nổi chìm nhưng rồi nó cũng trả nước về cho biển khơi mênh mông tĩnh lặng. Chúng ta đến đi trong đời cũng như bọt bóng nổi chìm, tan vỡ nhanh như trong mộng. Đời sống là giấc một. Một giấc mộng mơ; sống trong mơ, ra đi như mộng và chúng ta là sở hữu giấc mộng của chính mình.

Một trăm năm cho một đời người không đủ dài để ta rong chơi, lao xao tìm kiếm, mải mê trong giấc mộng. Đến một ngày, khi quay nhìn lại mình thì "đời đã xanh rêu". Ấy thế mà ngay khi còn sống, chúng nó làm tình làm tội chính mình và làm tình làm tội cả những người chúng quanh. Ta gây đau khổ cho mình, đọa đày những người chung quanh băng những lời trách móc, chì chiết, giận hờn. Đời sốngchúng ta không phải thở bằng những tiêu cực ấy mà nó thở bằng tình thương giữa chúng ta với nhau và với vạn vật muôn loài. Vũ trụthiên nhiên, cỏ cây, đất đá, trăng sao... là điều kiện cho ta sống, cho ta thở.

Có một vị thiền sư sống trong một cái am rất bé nhỏ rất nghèo nànVật dụng không có một món gì giá trị. Buổi tối nọ có tên trộm vào tìm kiếm, nhưng chẳng thấy gì để nó có thể lấy đi được. Nó tức giận hỏi: "Sao ông nghèo đến thế?" Vị thiền sư cười bảo: "Nếu anh hỏi in ta, ta sẽ có cái để cho, tuy nhiên khi vào đây anh đã không hỏi một lời. Anh lục lọi nên anh không biết cả có của cải". Tên trộm hỏi: "Của cải để đâu?" Vị thiền sư đáp: "Của cải ra cất trong đây". Nói xong, ông đưa tay chỉ vào ngực mình. Tên trộm to tiếng: "Thứ của đó tôi không xài. Tôi chỉ dùng của cải vật chất có thể đổi được cơm gạo... chứ cái đó thì quên đi". Vị thiền sư cười bảo: "Ta có của quí thì người không lấy, vậy ta tặng cho ngươi những của rất tầm thường đây". Nói xong ông cởi hết quần áo tặng cho tên trộm. Tên trộm ôm mớ quần áo của thiền sư ra đi. Vị thiền sư cười, bước theo và nhìn qua cửa sổ. Lúc ấy mùa đôngngoài trời rất lạnh nhưng qua song cửa, một màu trăng sáng rỡ trên cao, thiền sư buột miệng: "Tiếc thay, ta còn có một vầng trăng mà không thể cho ngươi được". Và một bài thơ hài cú đã được ra đời ngay lúc ấy:

Tên trộm đi rồi
Để quên bên cửa sổ
Một vầng trăng soi.

      (Thiền sư Royakyo -  Nhật Chiêu dịch).
Những câu thơ thật đẹp và lãng mạn nói lên tâm hồn của một người đã thoát ra ngoài biên giới của đời sống vật chất, cơm áo bình thường. Vì thiền sư trong cảnh trống không của túp lều chỉ đang thở, đang sống cùng màu trăng chiếu qua bên cửa sổ. Và chắc hẳn có người nghĩ rằng đời sống của vị thiền sưnày được nuôi dưỡng bằng mây nước trăng sao, bằng thơ văn và hồn thì lơ lững trên chín tầng mây, không thực tế. Nhưng đôi khi trong đời sống chúng ta nếu không có chút thơ thì chúng ta cũng mất đi ít nhiều khả năng hân thưởng cuộc đờiCon người không chỉ sống bằng bánh mì, gạo cơm, nước uống. Chúng ta có được đời sống hôm nay, ngay từ những ngày đầu tiên là chúng ta đã được nuôi dưỡngbằng những cảm thọ êm dịu, ngọt ngào từ tình thương của mẹ. Những chăm chút, yêu chiều đã theo ta suốt đời, và sẽ còn theo ta cho đến ngày trút hơi thở cuối. Đến độ trưởng thành, trong những môi trường mà ta tiếp xúc, những câu nói, những lời nhận xét hằn học, trách móc, đắng cay hay những lời ân cầnvỗ về... đôi lúc có thể tàn phá đời ta hoặc cho ta vị ngọt đến cuối đời. Thế nên, sự tồn tại của chúng ta không hẳn chỉ đơn thuần cơm ăn, nước uống.
Chất thơ trong con người chúng ta là sự rung động, sự cảm nghiệm về cái đẹp, cái lành và sự chân thật. Trái tim của ta ngoài điều diệu kỳ là bơm máu vào ra để nuôi dưỡng hình hài vật lý, nó còn đáng yêu hơn là biết rung cảm hòa điệu, ngời ca vẻ đẹp của thiên nhiên, của tình yêu và của vũ trụ đất trời. Nếu trong tim ta thiếu vắng chất liệu thi ca thì ta chỉ là một bãi cát hoang dại, khô cằn, là vùng sa mạc chết. Tự bản chất đời sống con người đã là khúc hát, đã là bài thơ.

Tình cảm là một loại thi ca, và khả năng suy nghĩ cũng là một loại thi ca. Thế nên, vị thiền sư tặng hết những gì mình có, ngay cả đến mảnh vải che thân; chơ vơ đứng chịu lạnh nhìn trăng qua cửa sổ, rồi ngân nga: "Tên trộm đi rồi, Để quên bên cửa sổ, Một vầng trăng soi".

Nơi đây ngoài cảnh trời đêm thơ mộng, vị thiền sư đang ngắm trăng và ông muốn gởi tặng cho ta một vầng trăng, chứ không phải cái gì khác. Những câu thơ đã nói lên ý nghĩa này và tiếc cho tên trộm đã bỏ đi mà không kịp nhận món quà ý vị đó. Nhưng điều sâu xa hơn ở đây là làm thế nào ta chiêm ngưỡngđược "vầng trăng của chính mình". Vầng trăng bên ngoài thì khi ẩn, khi hiện tùy theo ngày tháng vận hành, thủy triều lên xuống, nhưng với "mảnh trăng lòng" nếu ta biết giữ cho sáng mãi thì dù đi đến nơi đâu, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng có thể chiêm ngưỡng được. Vị thiền sư muốn tặng chúng ta mỗi người một vầng trăng vô tướng trong chính mình, chứ không phải vầng trăng tỏa sáng trên bầu trời khuya đêm ấy.

Liên hệ đến vầng trăng, trong thi kệ người xưa hay dùng những chữ "Mãn nguyệt từ dung" để xưng tụngtán thán dung nhan xinh tốt, đẹp lành và sáng rỡ của đức Thế Tôn. Trong văn học A Hàm, có ghi một chuyện nói lên sự trong lòng, tươi mát từ bậc Giác ngộ lan tỏa đến hết thảy mọi loài chúng sanh như sau:

Một lần nọ, một con chim cắt nhỏ bị người ta rượt bắt, nó bay tìm nơi ẩn trốn. Và nó đã bay vào tay áo của tôn giả Xá Lợi Phất, nhưng không hiểu sao nó thấy bất an lại bay ra và tìm vào y của đức Thế Tônthì nó nằm yên trong ấy, cảm thấy rất an bìnhĐức Phật thấy vậy liền hỏi Xá Lợi Phất: "Này Xá Lợi Phất, con chim kia trốn được trong y của ông, tại sao nó lại bay ra, không ở lâu trong đó?" Xá Lợi Phấtthưa: "Bạch Thế Tôn, tuy con đã chứng quả A La Hán, nhưng thiện nghiệp của con chưa tròn, tập khíbất thiện vẫn còn ít nhiều nên loài chim chiêu cảm được, nó không dám ở trong con. Trong khi năng lượng của Thế Tôn rất trong lành, tươi mát và tỏa rộng nên nó đến trú vào áo Thế Tôn thì cảm thấy an toàn".

Vầng trăng bên ngoài tuy trong sáng, tươi mát nhưng không mát, không sáng bằng vầng trăng của ta ở bên trong. Vị thiền sư muốn nhắn gởi đến chúng ta thông điệp rằng hãy quay về để nhận biết ngay trong ta có một vầng trăng, và khi nhận ra được "ánh trăng lòng" thì đời sống của ta trở nên tươi mát, tự nhiêntỏa sáng! Hoa mai một chút nhụy, thơm lừng đến ba nghìn thế giới.

Có những mức độ để chúng ta có thể giữ cho "vầng trăng" sáng mãi trong lòng mình. Khi tu tập khá một chút, chúng ta có thể tiếp xúc với vầng trăng thiên nhiên bên ngoài, tiếp xúc với cảnh vật, với con ngườivà nếu khéo thì trong tâm sẽ có niềm vui ngay lúc bấy giờ. Nếu tu tập giỏi hơn thì mọi đối tượng, mọi màu sắc, âm thanh đến với mình đều là nguồn an vui và hạnh phúc. Giỏi hơn nữa là chúng ta có thể tiếp xúc trực tiếp với khả năng chế tác niềm vui trong tự thân. Tự ta có thể làm cho lòng mình có niềm vui khi quay về tiếp xúc trực tiếp với khả năng tạo ra niềm vui ấy; cũng như khi nhìn thiên nhiên, đất trời ta thưởng lãm vẻ đẹp của vạn vật xung quanh, và ngay lúc ấy, ta có thể tiếp xúc với tạo hóa, hòa mình cùng với thiên nhiên bao la. Khi bước vào bên trong, chúng ta cảm nhận một điều quan trọng đó là ta đang sở hữu một năng lực nhiệm mầu có thể chế tác được niềm vui và hạnh phúc. Vào sâu hơn nữa, chúng ta an trú ngay nơi đầu nguồn tâm thức, Đó là điều vị thiền sư muốn nhắn nhủ chúng ta. Hãy tiếp xúc với vầng trăng nơi chính mình.

Tất cả mọi thành công đều phải trải qua những bước ban đầu chập chững. Trường giang cuồn cuộncũng bắt đầu từ những giọt nước đầu nguồn. Một đám cháy lớn thường bắt đầu từ một đốm lửa nhỏ. Và tâm giác ngộ cũng bắt đầu từ công phu hành trị từng bước một. Hương thơm tỏa rộng ba nghìn thế giớicũng chỉ phát xuất từ chút nhụy của một cánh hoa mong manh.

Chung quy, tất cả những gì có được, thành tựu được đều từ việc chúng ta biết làm thế nào tiếp xúc với Phật tính nơi chính ta. Và khi tiếp xúc được với tự tánh, cũng có nghĩa là tiếp xúc với vầng trăng của thiền sưtiếp xúc được với vũng nước trong lặng nơi vỏ sò, có thể phản chiếu cả vũ trụkhông gian lòng lồng nơi chính ta, và làm cho ta tỏa hương khắp ba nghìn thế giới.

Chúng ta hãy khéo quay về an trú nơi tâm Phật của chính mình. Đừng bỏ quên vầng trăng đang ngày đêm sáng rỡ trong tim.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2020(Xem: 6233)
Theo các nhà nghiên cứu về văn hóa lịch sử và khảo cổ học cho biết, những bức bích họa tranh tường màu sắc rực rỡ và tàn tích Phật giáo được khai quật tại Cộng hòa Uzbekistan, một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của Liên bang Xô viết, có niên đại từ thế kỷ thứ 2 và thứ 3, đã làm sáng tỏ sự hấp dẫn về sự lan tỏa nghệ thuật Phật giáo dọc theo con đường tơ lụa cổ đại.
24/06/2020(Xem: 8867)
Cổ nhân có câu: "sinh, bệnh, lão, tử". Bốn giai đoạn này không ai có thể tránh khỏi. Chuẩn bị ứng phó với bệnh tật và tuổi già của mình và của thân nhân mình là điều ai cũng có dịp nghĩ tới, kể cả chính kẻ viết bài này là tôi cũng đang sắp sửa bước vào tuổi “thất thập cổ lai hi”. Anh bạn thân của tôi, Bs. TNT từ lâu có đề nghị tôi viết một bài về "Viện Dưỡng Lão" (VDL) để giúp bà con mình có thêm một chút khái niệm về VDL vì anh biết trong suốt 27 năm qua tôi đã liên tục săn sóc cho các cụ già tại các viện dưỡng lão, và cũng đã là "Giám Đốc Y Tế" (Medical Director) của nhiều VDL trong vùng. Nay tôi muốn chia sẻ cùng qúy bạn một số kinh nghiệm và hiểu biết về VDL.
22/06/2020(Xem: 7954)
Truyện tích kể rằng sau khi đi một vòng châu du hoằng Pháp ở các làng mạc, Đức Phật trở về tịnh xá, và giữa chúng Tăng có cuộc thảo luận về trạng thái gồ ghề hay bằng phẳng của các con đường đã trải qua. Đức Phật nói rằng thảo luận về các con đường ấy không thích hợp cho sự giải thoát, đó chỉ là những đoạn đường ở bên ngoài thân tâm. Ngài khuyên chư Tăng nên lưu tâm đến con đường cao thượng là “Bát Chánh Đạo” thuộc giáo lý “Tứ Diệu Đế” và những việc cần phải làm khác để sớm đắc được đạo quả. Những giáo lý căn bản của Đạo Phật đưọc tóm tắt như sau đây:
20/06/2020(Xem: 8754)
Hai sự phân biệt được giới thiệu mà trước đây không được nêu rõ trong tài liệu về lòng bi mẫn, điều này có thể làm rõ những gì đang được nghiên cứu và khuyến khích sự chú ý đến các hình thức bi mẫn đã bị bỏ qua phần lớn. Sự khác biệt đầu tiên là liệu mục tiêu của hành vi bi mẫn là gần (ví dụ, nhìn thấy ai đó ngã xuống, trầy xước đầu gối của mình) hoặc xa (ví dụ, một người không quan sát trực tiếp ai có thể bị thương hiện tại hoặc trong tương lai). Gần là ngay lập tức, khắc phục nếu có thể cho những đau khổ chứng kiến; xa ngăn ngừa tác hại trong tương lai xảy ra. Nhóm phân biệt thứ hai đề cập đến việc lòng bi mẫn là sự thấu cảm, liên quan đến hành động hay là một khát vọng.
19/06/2020(Xem: 13684)
Tặng quà cho 285 hộ nghèo Ấn Độ ở 2 ngôi làng Katorwa-Mucharim (gần chùa Kiều Đàm Di VN- Bodhgaya) địa điểm cách Bồ Đề Đạo Tràng nơi đức Phật thành Đạo 7 cây số. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree cho phụ nữ, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200 Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD. (Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác.)
17/06/2020(Xem: 9969)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
17/06/2020(Xem: 6328)
Thật là một điều trùng hợp khi vừa đọc xong bài viết của Ôn Hội Chủ HT Thích Bảo Lạc được đăng tải trên trangnhaquangduc vào ngày 05/04/2020 là lúc tôi đang ôn lại hết những gì về Duy Thức Học và Vi Diệu Pháp vì thật ra khi đọc kinh sách của Nam Tông và Bắc Tông tôi đã tự nhận thấy Chữ Tâm luôn là đề tài mà người tu học phải tự điều phục và do đó lần nữa Chữ Tâm đã được gặp lại trong pháp môn này nhưng thêm vào chút thâm thuý sâu sắc khi được khảo sát qua ba tiến trình ( THỂ- TƯỚNG - DỤNG ) mà biểu hiện là Ý , THỨC , TÂM .
16/06/2020(Xem: 7088)
Tiến sĩ B. Alan Wallace, học giả, cư sĩ diễn thuyết, tuyên dương diệu pháp Như Lai, đã viết và dịch nhiều sách Phật giáo Tây Tạng. Ông không ngừng tìm kiếm các phương thức mới để hòa nhập việc tu tập Phật pháp với khoa học hiện đại và hậu thuẫn cho các nghiên cứu về tâm thức. Ông đã thực hành Phật giáo từ thập niên 1970, đã giảng dạy lý thuyết và hướng dẫn tu tập thiền định Phật giáo trên toàn thế giới từ năm 1076. Ông đã dành 14 năm sống trong chốn thiền môn với cuơng vị một tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng và phúc duyên được Đức Đạt Lai Lạt Ma thế độ xuất gia.
16/06/2020(Xem: 6220)
Dharamshala, ngày 9/6/2020: Ngài Khensur Geshe Tashi Tesering, một vị tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng nổi tiếng cư trú tại Queensland, Australia, cựu trụ trì Tu viện Gyudmey, nằm trong Danh sách Danh dự Sinh nhật Nữ hoàng 2020 vào hôm thứ Hai, ngày 8 tháng 6 năm 2020.
13/06/2020(Xem: 9913)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới khi trút hơi thở cuối cùng. Nhưng chết rồi cũng chưa hết khổ. Vì tâm thức của con ngườisẽ bị nghiệp lực dẫn đi tái sanh. Nếu đời sốnghiện tại, con người biết tu hành, làm việc thiện lành tránh việc hung ác, thường tạo nhiều phước báo, thì khi chết được tái sanh làm người. Ngược lại sống ở đời với tâm địa ác độc, xấu xa, luôn gây phiền não khổ đau cho người khác,thì sau khi chết bị đọa vào một trong ba đường khổ: súc sanh, ngạ quỷ hay địa ngục. Và cứ thế hết đời này qua đời khác, chúng sanh cứ như vậy chịu trôi lăn, lặn ngụp, đắm chìm trong bể khổ đường mê, không bao giờ thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]