Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp Thoại tại Tu viện Lộc Uyển ngày 18-05-2008

26/08/201721:35(Xem: 3844)
Pháp Thoại tại Tu viện Lộc Uyển ngày 18-05-2008

Pháp thoại tại Tu viện Lộc Uyển ngày 18-05-2008

Hôm nay ngày rằm tháng tư âm lịch, là ngày quan trong nhất trong mùa Phật đản. Theo truyền thống, khắp mọi nơi đều tổ chức lễ Đản sinh của đức Thích Ca Mâu Ni rất trọng thể, kéo dài đến cuối tháng tư (âm lịch). Nói về ngày Phật đản, người con Phật chúng ta lại nhớ về những tính cách và phẩm hạnh của đức Phật, bậc Đại giác đã đóng góp rất lớn cho sự an lạchạnh phúcđối với hành tinh này.

Đời người đến rồi đi rất nhẹ nhàng. Ai đến rồi cũng ra đi; chúng ta từ đất mẹ sinh ra, loay hoay một lúc rồi lại trở về với đất mẹ. Tuy nhiên, cái quan trọng cần phải kể đến là sự đóng góp của con người cho cuộc đời. Sự ra đời, có mặt của một người đôi khi chi phối và ảnh hưởng đối với dòng chảy lịch sử rất lâu dài, có thể làm chuyển biến tâm thức của một dân tộc. Điều này có thực.

Ví dụ như trong quá khứ có những con người xuất hiện làm kinh động cả địa cầu, gây đại họa cho nhân loạiđồng thời bên cạnh đó vẫn có những con người đến để đóng góp các phát minh đem lại lợi ích, nâng đời sống nhân loại lên một tầng cao như hiện tại. Và nếu có những người mà sự xuất hiện của họ hiến tặng cho con người, cho cuộc đời một tôn giáo hòa bình, yêu thương, tạo thành mảng văn hóa rất lớn, thì cũng có những tôn giáo có mặt mang đến cho nhân loại nỗi hãi hùng. Điều này lịch sử đã chứng minh thông qua sự bành trướng của họ suốt bao thế kỷ.

Ngoài con người thì các loài thực vậtthảo mộc cho đến đất đá cũng vươn lên góp mặt nơi đây bằng mọi cách, dù có những loài cây cỏ đời sống của chúng vô cùng ngắn ngủi. Chắc không ít người chúng ta đã có đôi lúc lặng người, ngẩn ngơ trước một loài hoa dại mọc bên đường, cạnh bờ tường hay trong kẽ đá... lặng lẽ tặng cho đời sắc hương bằng những cánh hoa nhỏ bé mỏng manh của mình. Hoa nở không vì mục đích gì cả, nở chỉ để mà nở thế thôi.

Đối với con người. sự viên mãn của một đời sống không quan trọng ở sự phô trương tự thân hay những sở hữu mình thủ đắc, mà việc thực sự quan trọng là phải quay lại bên trong hoàn thiệntinh cách, phẩm chất và năng lực giác ngộ của mình. Nhìn lại quá khứchúng ta thấy các bậc Thánh thể hiện mọi việc tu tậpgiáo hóađộ sinh một cách rất tự nhiên: do họ thành tựu viên mãn đời sống, khai triển tiềm năng làm Phật nơi chính họ, làm cho mình trở thành đúng nghĩa là một con người. Đây mới là đời sống đích thực. Nếu chúng ta tự làm được điều này cho chính mình, tự nhiên chúng ta cũng sẽ tỏa hương.

Tại Nhật Bản, có một nhà thơ không những rất nổi tiếng trong nước mà còn được nhiều người ở nước ngoài biết đến, đó là Basho, và chúng ta cũng thường gọi là Ba Tiêu. Những câu thơ ít chữ, cô đọng và bát ngát thiền vị đã đưa ông trở thành một bậc thầy trong lĩnh vực thi ca thiền tông Nhật Bản.

Dưới đây là một trong những bài thơ rất hay, đầy tuệ giác của Ba Tiêu:

Giữa mùa thu  tàn
Vươn lên từ rác
Một cành triêu nhan.

      (Nhật Chiêu  dịch)
Giữa đống rác trong một ngày cuối thu, một cành triêu nhan nở ra tinh khôi hương sắc. Nhìn đóa triêu nhan dịu dàng nở và tàn rất mong manh giữa rác bụi trong buổi ban mai, như nói lên dùm ta thân phậncon người; người và hoa đều phù du như nhau. Hoa từ rác và con người cũng từ chốn bụi trần đầy nước mắt, hệ lụy, khổ đau mà có mặt; đến và đi như trong mơ.

Tuy vậy, con người có khả năng biết tự đứng lên, làm tỏa hương cho cuộc sống chính mình và hiến tặng cho đời, ấy mới là điều quan trọng. Nếu đọc vào kinh điển Phật giáo thì chúng thấy những điều này đức Phật đã từng khai triển. Thông điệp của ngài muốn gởi gắm là làm thế nào cho đời sống chúng ta tự nở hoa, như dóa triêu nhan nơi chốn rác bụi kia, dù không bền lâu nhưng chỉ cần một lần thôi thì cũng đã viên mãn một kiếp người.

Đức Phật từng dạy nơi cõi đời này, ngay nơi chốn nhân gian ô trược này, con người được sinh ra, nhưng ai cũng có khả năng tu tập và thành đạo. Chưa có một vị Thánh, một vị Phật nào thành đạo tại thiên giới. Các đức Thế Tôn đều thành đạo ngay tại chốn này, ngay tại đời sống này, hay nói một cách cụ thể hơn là ngay nơi hình hài này, ngay nơi từng thân phận của mỗi con người. Và trong văn học A Hàm rất nhiều lần lặp lại câu: "Chư Phật giai xuất nhân gian, chung bất ư thiên giới thành đạo giả": Các đức Thế Tôn đều được sanh ra từ cõi nhân gian này, chưa có vị nào thành Phậtchứng quả Chánh giácở các cõi trời.

Từ bài học này, chúng ta cùng quay lại để thấy đôi khi mình có thói quen nghĩ rằng phải làm một điều gì khác biệt hơn trong tương lai, hay phải đứng khác vị trí hiện tại mới thực hành được điều mình muốn; ví dụ như muốn tu tập phải đến chùa mới tu được, muốn học đạo phải tìm một vị thầy thật giỏi mới học được. Chúng ta thường nghĩ phải nương vào thầy, nương vào ngôi chùa, một tự viện nào đó mới tu được, mới trở thành tài giỏi được. Chúng ta hay thích gắn cuộc đời mình vào những gì bên ngoài, không tự tin vào nơi chính mình. Những quan niệm như vậy chưa hẳn đúng. Đôi khi là điều hoàn toàntrái với tinh thần của đạo PhậtĐạo Phật dạy rằng chúng ta chính là chủ nhân của đời mình, chủ nhân của hình hài, của dòng sinh mạng, của vui buồnsầu khổbất an này. Vận mệnh mình, mình nắm trong lòng bàn tay. Và khi nhận thức được điều này thì chúng ta giải quyết được, vượt thắng được mọi niềm đau nỗi khổ ngay chính nơi thân phận mình. Khả năng, tài ba hay giác ngộgiải thoát đều tự phát từ bên trong mỗi người, không một bậc đạo sư hay thần linh nào giúp ta tạo nên được. Đem lại hạnh phúc hay vượt thoát khổ đau đều do chính ta làm lấy cho mình mà thôi.

Hạnh phúc ư? Ta tạo lấy. Sầu khổbất an ư? Ta có trách nhiệm. Người kia dễ thương hay không dễ thương? Không phải họ dễ thương mà chính ta làm cho họ dễ thương. Người kia đáng ghét ư? Không có một người nào trên nhân gian này đáng ghét cả. Tất cả đều từ cái nhìn của chúng ta thôi. Do vậy, điều đầu tiên cần nhớ: chúng ta chính là chủ nhân của đời sống mình, chịu trách nhiệm về cuộc đờimình. Đừng bao giờ gắn đời mình vào bất cứ nơi đâu hay giao phó cho bất kỳ ai. Rõ ràng nhất là khi chúng ta gắn đời mình vào một ai đó thì sầu khổbất an từng bước liền theo sau. Thông thường nếu chúng ta là người có nhiều niềm vui, có hạnh phúc thì ta mang niềm vui, hạnh phúc cho người đến với mình. Nhưng nếu ta và người cùng tìm đến nhau bằng hai tâm hồn cô quạnh thì sự nương tựa, gắn chặt hai mảnh đời với nhau lại càng đan dày thêm nỗi cô quạnh. Và chính điều này làm cho đôi bên càng thấy đối tượng kia vô cùng cần thiết cho mình. Vì vậy, nỗi lo lắngsầu khổbất an lớn dần khi mối quan hệ có vẻ bất ổn, không còn tươi đẹp như ngày nào.

Cho nên, điều người con Phật phải làm là hãy sống hùng, sống mạnh. Đứng vững trên hành tinh này bằng đôi chân mình, an trú ngay nơi thân tâm này, chuyển hóa nghiệp thức phiền não của chính mình. Ta hãy như dóa triêu nhan kia vươn lên từ rác, nở hoa dâng cho đời chút hương sắc dù chỉ một lầntrong buổi tàn thu.

Từ bình diện cạn của cuộc sống đời thường cho đến chiều sâu của sự tu tập, nếu chưa có năng lực tự tin thì ta chưa phát triển được đời sống tâm linh. Trong cuộc sống mà ta không tin vào khả năng vươn lên của mình thì không thể làm nên sự nghiệp, tạo dựng cơ đồ được. Nếu không vững tin ta có thể học hành tới nơi tới chốn, thì không thể thành công trên con đường khoa bảng. Con đường tu tập cũng thế, một khi ta chưa khơi mở trong trái tim mình niềm tin sâu chắc rằng ta sẽ thành Phật, thể nghiệm được an lạcgiải thoát ngay trong hiện đời thì chúng ta không thể nào tu tập giỏi được.

Các vị Phật xuất hiện trên cõi dời, chưa có một vị Phật nào trụ mãi ở hành tinh này đến trăm năm. Nhưng nơi đây, chính ngay cõi ô trược này là môi trường tốt lành nhất để con người tu tậpthành tựu trí tuệan lạc và giải thoát. Ngay nơi hình hài này, thân phận này, có biết bao nhiêu điều kiện tuyệt vời mở ra cho chúng ta tu tậpChúng ta không cần tìm kiếm một hành tinh nào khác xinh đẹp hơn trái đất này mới có thể tu tập được. Mỗi con người chúng ta đều có hạt giống thiện lành, chỉ có điều chúng ta không biết chăm sóc hay không nhận ra hình hài ta đang cưu mang đây vốn có một giá trị hơn bất cứ loài động vật nào khác. Dù rằng kiếp người không bền lâu: bảy, tám mươi năm không là gì so với chiều dài của các loài động vật hay thực vật khác (có những loài cây, loài thú sống đến cả ngàn năm), nhưng bên trong ta có điều kiện tuyệt vời của sự tỉnh giác; biết quay lại để đổi thay, để hoàn thiện. Nên câu kinh trong văn học A Hàm: "Các đức Thế Tôn đều xuất hiện trong cuộc đời, chưa có vị nào thành đạo ở các cõi trời" là nguồn cảm hứng khích lệ rất lớn cho các vị thầy. Câu này trao cho chúng ta niềm tin vững chắc về khả năng thăng tiến của thân phận con người. Tuy chưa thể thành tựu giải thoáttối thiểu chúng ta cũng nắm được trong tay vận mệnh của mình. Chúng ta có thể làm cho mọi thứ quanh mình trở thànhnguồn an vui, là mật ngọt hạnh phúc. Nếu chúng ta tu tập giỏi thì suốt đời không có gì gọi là phiền muộnbất hạnhđối kháng đến với ta. Tất cả đều được ta chuyển hóa thành dòng nước mát ngay nơi đây, nơi quả đất này.
Trong đêm cuối cùng lúc thái tử Sỉ Đạt Ta sắp thành tựu đạo quả Vô thượng chánh đẳng chánh giácma vương dùng mọi cách cố hủy diệt ngài bằng binh tướng, đao thương, lũ lụt... nhưng ngài vẫn an trụ trong thiền định nên vũ khi chạm đến ngài, tất cả đều trở thành những đóa sen tươi thắm. Đây là biểu tượng nói lên rằng khi một con người với tâm thức an trụ vững vang trong chánh niệm, thì có thể dễ dàng hóa giải mọi chướng ngăn khiến trở thành thắng cảnh. Nếu chúng ta tu tập giỏi, luôn chánh niệmtrong từng ý nghĩ, trong từng động tác thì mọi thế lực xấu ác từ hoàn cãnh xã hội bên ngoài, hay phiền nãolo âubất an... khởi lên từ trong ta, tất cả đều trở thành hương hoa tươi mát.

Chia sẻ những lời dạy của đức Phật để chúng ta y cứ thực tập, thấy rằng ta chính là chủ nhân của đời sống, tất cả mọi việc đều do ta quyết định, làm chủ. Ta là Thượng đế tạo nên đời sống Thiên đườngNiết bàn cho chính ta, và ta có thể làm được điều này bằng sức dũng mãnh cùng với niềm tin vững chắc. Đây là điều rất quan trọng. Làm được điều này chúng ta mới chấm dứt được kiếp lang thang, mới trọn vẹn nhân cách của một con người và bừng nở như một đóa triêu nhan. Bằng như chưa làm được, thì ta vẫn còn mãi soay vần trong sống chết, đến đi, vui buồn, khổ lụy kéo dài muôn triệu kiếp.

Làm thế nào để vươn lên, viên mãn kiếp người trong cuộc đời này? Bước đầu tiên trên con đường tu tậpchúng ta phải luôn phát khởi niềm tin vào Phật tánh nơi chính mình, bước thứ hai là ta phải thể nhập trọn vẹn với Phật tánh đó. Và chỉ cần sống thường trực trong tâm thái này là chúng ta có thể vượt thoát ngoài ba cõiĐời sống thường nhật dù tiếp cận với bao nhiêu khó khăn, phiền toái, khổ đau nhưng ta không giao động, vẫn an nhiên đi đứng, nói cười vì ta an trú được trong trạng thái bất động của tâm Phật để hành xử.

Hai câu sau đây được trích trong bài kệ dài do đức Bảo Tích xướng lên ca ngợi đức Phật khi các vị Bồ tát về thăm ngài (Kinh Duy Ma Cật- Phẩm Phật Quốc): "Năng thiện phân biệt chư pháp tướng. Ư đệ nhất nghĩa nhi bất động" - Có thể khéo phân biệt tướng của các pháp, nhưng nơi nghĩa chân thật thì vẫn luôn bất động.

Nghĩa là chúng ta có cái hiểu biết rõ ràng, tường tận về các pháp các pháp của nhân gian như một vị thầy thuốc giỏi, nhìn là sáng tỏ mọi điều, phân biệt mọi việcnhận biết mọi đối tượng đến với tai, mắt, mũi... thế nhưng tâm luôn trụ trong vùng trời bất động của Như Lai. Khi ta bước vào cõi giới này, tức là ta đang an trú trong tâm Phật sáng chói, an nhiên bất động của chính mình. Ta phân biệtnhận biết rõ ràng mọi thứ, ta vẫn sống và xử sự như mọi người trong cuộc đời nhưng ta không giống mọi người, vì tâm ta là cảnh giới tịch tĩnh bất độngPhương pháp phát khởi niềm tin và nhận diện vị Phật trong ta là phương pháp chúng ta cần ứng dụng để thực tập.

Nếu đọc thêm kinh Duy Ma Cật, ta sẽ thấy có một chương đặc biệt nói về cảnh giới bất động của đức Phật quá khứ, và khi Thế Tôn giới thiệu về cảnh giới này thì các vị Thanh Văn, các vị Trời đều muốn được nhìn thấy. Và đức Phật bảo ngài Duy Ma Cật có thể giúp các vị ấy thấy được cảnh giới bất độngcủa đức Phật A Súc (Akshobya).

Sau khi Thế Tôn dạy lời này, ngài Duy Ma Cật vươn dài cánh tay của mình đến tận cảnh giới bất độngxa hàng triệu năm ánh sáng, nâng cảnh giới ấy lên tay mình như cầm quả cam, trân trọng đặt trước mặtthính chúng. Đây là một hành tinh xa xôi, đầy sinh dân đang cư trú nay tự nhiên có người mang đặt lên cõi Ta Bà mà vẫn không bị thu nhỏ lại. Các vị Bồ tát trên cảnh giới ấy cảm nhận được hành tinh đang rung chuyển và không hiểu vì cớ gì bị người khác mang điĐức Phật Bất Động trả lời: "Đấy là do thần lực của Duy Ma Cật". Điều kỳ lạ và ngạc nhiên là không một ai nhận ra được độ rung của hành tinh khi di chuyển, hoặc một sự đổ vỡ nào đó khi chạm phải địa cầu. Và không gian của cõi Ta Bà cũng không thay đổi một mảy may.

Khi nghe chuyện chúng ta chắc sẽ nghĩ rằng đó chỉ là huyền thoại. Nhưng nếu chúng ta tu tập giỏi, có định lực lớn thì ta có thể cảm nghiệm rõ được điều này. Tuy còn tâm thức của một con người ở cõi phàm trần, nhưng ta cũng có thể an trú trong định bất động để hành xử như các vị Bồ tát ngày xưa. Làm thế nào khi đứng trong thân phận con người với tâm thức của phàm phu nơi cõi ô trược thế này mà chúng ta có thể chứng nghiệm và nhìn được cảnh giới bất động của người xưa? Một ví dụ thực tế rất gần với chúng ta, đó là những khi tâm ta xao độngbất an vì lo âuphiền muộn thì hoàn cảnhkhông gian chung quanh trở nên tù túngảm đạm và hắt hiu. Nhưng khi lòng ta thanh thản, rộn rã niềm vui, thì cũng trong không gian ấy, hoàn cảnh ấy, cũng ngôi nhà này, nhưng ta thấy hình như rộng hơn, hoa cỏ tươi hơn, không gian thênh thang hơn. Và trong đời sống vật lý người ta đã từng làm được điều này. Chỉ với một vuông sân vừa phải nhưng tùy theo cách bài trí của chủ nhân; một viên đá, một gốc tùng, một đám cỏ xanh cũng làm cho không gian trở thành khoáng đạt, cho ta cảm giác thư thái khi ngắm nhìn.

Từ ví dụ nhỏ này, chúng ta có thể quy chiếu về tâm thức mình để thực tập và thẩm thấu từ trong tim; từ đó tạo ra không gian tương hợp cho đời sống gia đình, cho hoàn cảnh ta đang sống. Và cũng từ trái tim, ta có thể làm cho năng lượng bình yên, yêu thương tràn đầy trong ta. Làm được như vậy, không những chỉ mình ta thừa hưởng được sự an bìnhthanh thản mà những người bên cạnh ta, chung quanh ta cũng cảm nghiệm được điều ấy. Đây là mức độ cạn trong trạng thái tâm bất động.

Tiến vào mức độ sâu hơn của tâm thể bất động: khi những hoàn cảnh khó khăn đến với ta, phủ lên đời ta bao nhiêu là nhọc nhằn, nếu chưa có năng lượng tu tập thì người đứng bên cạnh sẽ nhìn thấy ta rất tội nghiệp. Nhưng khi ta thực sự bước vào chỗ thâm sâu trong tâm thể bất động thì dù hoàn cảnh có đổi thay thế nào, khó khăn hay buồn khổ ra sao cũng chỉ là trò chơi, chẳng có quan hệ gì đến ta.

Tất cả đều sinh khởi, biểu hiện từ tâm thức của chính ta chứ không phải do những sự kiện, đối tượng đến từ bên ngoài; nhưng do ta tự gắn cuộc đời mình vào hoàn cảnh, vào con người mà trở nên khổ lụy. Đến đi, mất còn là chuyện rất thường, vậy mà người đến thì lòng ta mở hội. Người chưa đi ta đã cảm thấy buồn, vắng một ngày là ta thấy sầu nhớ, tưởng tượng vu vơ rồi thấp thỏm lo âuRõ ràng là không phải chuyện đến, đi làm mất mát muộn phiền, mà do tâm thức của chính ta tạo nên đau thương, mất mát cho đời ta. Ta có mặt trên nhan gian này không vì một ai, đến đi chưa hề vì ai. Ta đến nơi đây đơn độc một mình, rồi ta đi vào cõi mịt mù cũng chỉ mình ta. Chưa hề có một cuộc sống gắn liền với ai đó từ kiếp này qua kiếp khác. Ta có nhau nhiều lắm là năm, ba mươi năm, thế mà ta mượn những tạm bợ, bấp bênh của đời, của người gắn liền vào mình, xem họ là một nửa của đời mình rồi loay hoay tìm kiếm, nắm giữ.

Nếu hiểu hợp tan là lẽ thường của đời sống thì chúng ta đủ thông minh để đừng bao giờ gắn mình vào bất cứ cái gì, vào bất cứ ai, mà an trú ngay trong chính mình và như vậy là có thể cắt đứt mọi ràng buộcvướng mắc. Khi làm được điều này, chúng ta đã chứng nghiệm được tầng bất động thứ hai của tâm thức. Hãy thử quay lại quán chiếu tự thân, xem chúng ta đã an trú được trong trạng thái bất độngnày chưa?

Ở mức độ thâm sâu của tâm thể bất động chính là thể tánh Như Lai, có nghĩa là tâm Phật của chúng tahay cũng là con mắt Phật rực sáng trong trái tim của mỗi người. Chỉ cần mở mắt ra là chúng ta đã nhìn thấy, là nhận biếtNăng lực nhận biết này là con mắt Phật vô sinh bất diệt, như nhiên bất động mà ta đang sử dụng hàng ngay. Những tiếng nói thì thầm, những cảm thọ vui buồn khởi lên rồi mất đi liên tụcđều không vượt thoát khỏi sự "nhận biết" nằm trong hình hài năm uẩn này. Năm uẩn này được cho là phiền trượcnhiễm ô như bãi rác. Nhưng chính từ bãi rác đó có thể nở ra cành triêu nhan: "Giữa mùa thu tàn. Vươn lên từ rác. Một cành triêu nhan".

Nhân mùa Phật đản năm nay, điều cuối cùng chúng ta cần nhắc đến đó là chúng ta ai cũng sở hữu một gia tài quý giá. Gia tài đó không phải là vật chất chúng ta đang có, không phải là nhiều tiền trong ngân hàng, không phải là được nhiều người mến thương, quí trọng bao quanh. Tất cả những thứ kể trên, người xưa ví chỉ như đóa phù dung sáng nở tối tàn, như làn hương thoảng qua không giữ lại được. Nhưng phù du hơn tất cả là chuyện khổ vui, thương ghét... của con người. Hãy thử nhìn lại để thấy mình trong một ngày thương đây, ghét đó bao nhiêu lần. Vậy mà ta than phiền, muốn mọi ngườimọi việc đều phải theo ý mình. Ta đầu tư đời mình cho những chuyện thương ghét, ưu sầu, giận hờn, khổ lụy không đâu - ta tự làm cho đời sống ta khổ héo. Trong khi quan trọng nhất của mỗi kiếp sống đó là ta cần làm cho đống rác hình hài này vươn lên thành cành triêu nhan, nở một đóa hoa toàn vẹn trong trái tim mình. Làm được như vậy là ta đã tiếp nhận và sử dụng trọn vẹn cái gia tài quý giá nhất của mình.

Đức Thế Tôn chỉ một lần nở hoa đã mang vô vàn hương sắc tặng cho hành tinh này. Từ những lời dạy của ngài đã hình thành một tôn giáo với đặc tính từ bi và trí tuệ siêu việt có khả năng nâng đỡ đời sốngcho nhân loại trên mọi lãnh vựcChúng ta tuy chưa thực hiện viên mãn một kiếp người như đức Thế Tôn, thì ít nhất cũng làm cho hoàn cảnh sống của mình trở nên đẹp, lành, mang cho những người đến với mình suối nguồn của sự an lạc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/05/2011(Xem: 4779)
Từ khi ra thăm bốn cửa thành, Thái tử Tất Đạt Đa đã cảm nhận những nỗi thiết tha thống khổ của nhân loại khiến Ngài quyết tâm đi tìm một chân lý để cứu giúp chúng sinh còn đang lặng hụp trong biển đời sinh tử trầm luân.
28/05/2011(Xem: 5994)
Chữ niệm nghĩa là nhớ. Chữ Hán viết phần trên là chữ kim, nghĩa là nay, phần dưới chữ tâm, nghĩa là lòng mình. Niệm là điều ta đang nhớ tới, đang nghĩ tới. Mà điều ta nhớ và nghĩ có thể là tà, có thể là chính, vì vậy nên có tà niệm và chánh niệm.
26/05/2011(Xem: 10719)
Nhận lời mời của quý vị, hôm nay có duyên cùng quý vị bàn về tam quy y trong Phật pháp tại Bờ biển Vàng (Golden coast) Queensland- Australia. Ðối với Phật pháp đây là đề tài rất quan trọng, là chỗ nhập môn tu học của chúng ta. Trước khi nói đến tam quy, đầu tiên phải có nhận thức chính xác về Phật pháp.
21/05/2011(Xem: 6348)
Ý tưởng về bồ đề tâm thật không thể nghĩ bàn! Nó khiến cho tất cả những công việc nào không liên quan đến việc làm lợi lạc cho chúng sanh trở nên buồn chán và bất toại nguyện. Ta thật sự sẽ không còn hứng thú hay thưởng thức được đời sống của mình, ngoại trừ công việc đầy ý nghĩa này. Tất cả mọi thứ khác sẽ trở nên vô nghĩa, trống rỗng và không có thực chất.
20/05/2011(Xem: 5579)
Ta cần có những thiện hạnh để chấm dứt những dục vọng vô độ và việc coi mình là quan trọng; cách hành xử tránh điều độc hại như thuốc độc...
19/05/2011(Xem: 14743)
Hầu như ai đến phố Bolsa cũng từng thấy một khất sĩ mà nhiều người gọi là “ông sư ở Phước Lộc Thọ.” Ông mặc bộ áo cà sa vàng, khoảng 40 tuổi, tay ôm bình bát, mắt nhắm nghiền như đang thiền định. Ông đứng từ sáng đến chiều, ngày này qua ngày nọ bất kể thời tiết nóng hay lạnh. Phố Bolsa sáng sáng thường có các nhà sư đi khất thực bên ngoài những cửa tiệm, đặc biệt trong khu chợ ABC ở góc Bolsa và Magnolia. Họ xuất hiện trong vài ngày hoặc vài tuần, xong biến mất như đã hoàn tất một giai đoạn trên con đường tu tập.
18/05/2011(Xem: 19956)
Con được biết - không chắc đúng không - hôm nay 28-4, là ngày Sinh Nhật Sư Phụ tròn 88 tuổi nên con viết vội đôi dòng kính chúc Sư Phụ luôn Phước Thọ tăng long, bách niên thọ thế để hàng đại chúng Bảo Vương của chúng con nói riêng và Giáo hội nói chung luôn có được bóng mát chỡ che tinh thần và trí tuệ của một trong số rất ít còn lại hàng đại lão hòa thượng của PGVN. Riêng con vẫn còn đó một đại tự điển sống về Phật học tinh hoa cũng như về lịch sữ Việt Nam thời cận đại.
15/05/2011(Xem: 4912)
Nhân quả đồng thời được nói một cách cô đọng trong kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm… và rải rác trong các kinh điển Đại thừa. Có lẽ người đầu tiên dùng thành ngữ “nhân quả đồng thời” là Đại sư Trí Khải (thế kỷ thứ 6) trong Pháp Hoa Huyền Nghĩavà trong các tác phẩm Thiên Thai tông của ngài, y cứ trên kinh Pháp Hoa. Thành ngữ này cũng là một giáo lý chính yếu của Hoa Nghiêm tông vào thế kỷ thứ 7. Nói một cách vắn tắt và đơn giản, nhân quả đồng thời là quả giác ngộ, quả Phật vốn đã nằm nơi nhân tu hành để đạt đến giác ngộ, để thành Phật. Nhân của thành Phật là “nhân địa pháp hạnh của Như Lai” được nói trong kinhViên Giác:
14/05/2011(Xem: 11739)
Xuất phát từ một nhận thức có tính thuyết phục về đạo Phật, quyển "Thuần Hóa Tâm Hồn" được viết với một văn phong hiện đại, trong sáng và tinh tế; nghiêm trang nhưng vẫn đan xen đôi nét hóm hỉnh.
14/05/2011(Xem: 5314)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567