Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đừng phụ suối đồi

24/10/201610:51(Xem: 6370)
Đừng phụ suối đồi
ĐỪNG PHỤ SUỐI ĐỒI.
Thích Giác Tâm
*
       Đừng buồn suối ơi !
       Đừng buồn núi ơi !
            (Trịnh Công Sơn)

Nhân ngày sinh 90 của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, rất nhiều người Phật tử và không Phật tử đã làm nhiều việc tốt đẹp để cầu nguyện cho Thiền Sư thọ mạng dài lâu với bốn chúng đệ tử và mọi người thương mến Thiền Sư ( xin được thay từ Thiền Sư bằng Sư Ông cho thân mật). Tôi cũng xin được đóng góp một vài kỷ niệm với Sư Ông.

14720508_877683752331416_6660333175460288128_n.jpg

Nhắc lại chuyện xưa một chút:

Trước năm 1975, một bữa nọ tình cờ tôi vào nhà sách Kim Linh, đường Hoàng Diệu, nay là đường Hùng Vương, TP. Pleiku. Vốn yêu sách tôi dạo một vòng và với tay chọn tác phẩm Tình Người, tác giả Tâm Quán. Tôi về đọc say mê từ đầu đến cuối, từ đó yêu thích văn học Phật giáo, và luôn tìm sách của Sư Ông để đọc. Tôi yêu văn học Phật giáo bắt đầu từ tác phẩm Tình Người. (Tâm Quán là bút danh khác của Sư Ông).

Tôi thương kính Sư Ông qua tác phẩm Tình Người, và sau này hơn trăm tác phẩm khác. Tôi dõi theo bước chân hoằng pháp của Sư Ông từ trong nước, qua các châu lục khác nhau. Yêu thương đến mức viết một bức thư tay gởi cho Sư Cô Trí Nguyện mang qua Pháp thăm Sư Ông. Trong bức thư viết ngày 20 tháng 02, năm 1998 đó có đoạn:"Bạch Sư Ông! Con yêu kính Sư Ông từ ngày con mới xuất gia, qua tác phẩm Tình Người. Kể từ ngày đó con luôn dõi theo hình bóng Sư Ông, có lúc con đi lượm lặt những tài liệu của các tác giả viết về Sư Ông, và qua những tác phẩm Sư Ông viết, con định viết cuộc đời và sự nghiệp của Sư Ông qua cách nhìn và sự rung cảm của con khi đọc. Nhưng rồi con không thực hiện được, bởi vì đệ tử của Sư Ông ở phương tây viết về Sư Ông hay quá, do vậy con bỏ ý định".

Một đoạn khác: "Bạch Sư Ông! Con nhớ thương người vô hạn, con thường xuyên giới thiệu đường hướng của Sư Ông cho tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, đảng phái. Sau mỗi thời gian thực tập, mọi người đều được hạnh phúc. Có lần con ra miền Bắc, có ghé Hà Nội thăm. Một số chùa tại Hà Nội, các vị tăng ni trẻ vẫn biết đến Sư Ông và họ rất thương mến. Con có tặng cho các tăng ni trẻ miền Bắc cuốn"Nói với người xuất gia trẻ tuổi". Mấy mươi năm định viết thư thăm Sư Ông, nhưng rồi không viết được, hôm nay tình cờ con lại viết thư thăm Sư Ông để nói lên nỗi niềm của mình. Con rất xúc động nên chữ nghĩa ngoằn ngoèo, mong Sư Ông xá tội cho". ( Bức thư này được in trong tác phẩm "Về lại cội Bồ Đề" nhà xuất bản Lá Bối - Paris 1999).

Năm 2005, Sư Ông về nước thăm, hoằng pháp, tôi cùng các Phật tử có "Theo bước chân Thầy" đi thiền hành tu tập, ở Huế, Quy Nhơn - Bình Định).
Ấn tượng nhất vẫn là lần cùng Sư Ông, tăng thân Làng Mai thăm đền Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt, ở Phú Phong , Tây Sơn, Bình Định. Nghi lễ đón tiếp Sư Ông tại bảo tàng Quang Trung vô cùng long trọng, chuyến thăm này chư tôn đức trong BTS tỉnh hội Phật giáo Bình Định cùng đi với Sư Ông. Hòa thượng Giác Ngộ, chùa Bửu Thắng Gia Lai, Hòa thượng Thiện Nhơn tổ đình Thiên Đức Bình Định, cùng tháp tùng đoàn.

Đôi mắt Sư Ông luôn rực sáng chăm chú xem biểu diễn tinh hoa võ thuật Bình Định, xong phần biểu diễn Sư Ông có nói chuyện với hội chúng khoảng 30 phút, sau đó thầy Pháp Ấn đem bức thư pháp lồng trong khung hình, kích cỡ 40 x 60 có thủ bút của Sư Ông với dòng chữ " ĐỪNG PHỤ SUỐI ĐỒI". Tặng cho ban tổ chức bảo tàng Quang Trung. Tại sao không câu chữ nào khác, mà lại là câu" ĐỪNG PHỤ SUỐI ĐỒI". Sư Ông muốn nhắn gởi điều gì đây đối với các vị lãnh đạo UBND tỉnh Bình Định, các vị lãnh đạo Phật giáo trong Ban trị sự Phật giáo tỉnh Bình Định.

Các Thiền Sư, các Tổ Sư, các Hòa thượng cao tăng, miên mật tu trì, thiền định, các vị thường có tuệ giác, tri kiến khác người thường, có vị nhìn biết diễn biến thời cuộc trước khi nó xảy ra, như Quốc Sư Vạn Hạnh đời nhà Lý, Bồ tát Thích Quảng Đức năm 1963, và một số vị Thiền Sư được ghi chép lại trong "Thiền Uyển Tập Anh", và "Thơ văn Lý Trần"....

Dõi theo đời hoằng đạo của Sư Ông, chúng ta cũng thấy được tuệ giác siêu việt của Sư Ông. Trước năm 1975 khi viết cuốn sách "Đạo Phật ngày mai" với bút danh B'SU DANGLU, (nhà xuất bản lá bối 1970) Sư Ông có dự đoán rằng đất nước Việt Nam sẽ thống nhất. Sự kiện 11 tháng 9 năm 2001 tại Tòa Tháp Đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới tại Manhattan, Thành phố New York . Trước ngày Tòa Tháp Đôi nổ tung một tuần, Sư Ông đang thuyết giảng tại Thành phố New York, với đề tài Giận (Angry).

Khi còn khỏe Sư Ông cùng với các nhà khoa học thế giới luôn tổ chức những khóa hội thảo khoa học về môi trường, môi sinh. Trong những đĩa băng giảng mà chúng tôi nghe được, có một đĩa giảng Sư Ông kể lại đại ý rằng: Có những năm các nhà ngoại giao và doanh nghiệp Mỹ trước khi qua Việt Nam để thương thảo về lãnh vực kinh doanh, có hỏi ý kiến Sư Ông và xin Sư Ông một lời khuyên, Sư Ông trả lời họ như thế này: " Các ông qua đất nước chúng tôi để hợp tác kinh doanh thương mại, chúng tôi rất mừng, mong các vị làm kinh tế với đất nước Việt Nam chúng tôi, làm gì đó thì làm nhưng đừng hủy diệt môi trường của đất nước chúng tôi, đừng biến đất nước chúng tôi thành một bãi rác".
Ngày hôm nay, nhớ lại lời dặn dò của Sư Ông với các nhà ngoại giao và doanh nhân Hoa Kỳ, chúng ta thấy như là lời dự báo về hiểm nạn môi trường sống của đất nước Việt Nam chúng ta, qua các sự cố ô nhiễm biển các tỉnh miền trung vừa rồi.

Trở lại bức thư pháp "ĐỪNG PHỤ SUỐI ĐỒI" của Sư Ông.

Sư Ông là một nhà sử học, đã viết tác phẩm "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận" với bút danh Nguyễn Lang, tác phẩm viết về lịch sử Phật giáo Việt Nam rất công phu giá trị, được nhiều giới học thuật ngợi khen.

Chính từ là một nhà sử học, cho nên Sư Ông hiểu rất rõ về vai trò của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn trong lịch sử nước nhà. Hiểu được sự đóng góp của đồng bào các dân tộc,trong đó có dân tộc Ba Na.... trong công cuộc kháng chiến của nhà Tây Sơn, và sau này là cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Vùng tây sơn thượng đạo (An Khê ngày nay) núi rừng hiểm trở, nếu không có sự ủng hộ giúp sức của đồng bào dân tộc Ba Na thì nhà Tây Sơn, cũng khó mà tụ nghĩa dựng nghiệp.

"ĐỪNG PHỤ SUỐI ĐỒI" là Sư Ông thầm chỉ các dân tộc thiểu số miền núi, ta đừng phụ họ.

Trong cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, đồng bào các dân tộc thiếu số ở ba miền, có công rất lớn. Và chính quyền đã làm công tác dân vận rất khéo, thể hiện tình cảm hết lòng, nên họ cũng đã hết lòng che dấu bảo vệ, sống chết có nhau. Điều quan trọng nhất trong thời gian kháng chiến là chính quyền, nhà nước đã khơi mở, giảng giải, thuyết phục họ giữ được ông Giàng (trời) của họ, tín ngưỡng truyền thống, văn hóa gốc của họ, nên họ đã chung lưng đấu cật trong việc chung của Tổ quốc.

Sau năm 1975, đất nước hòa bình độc lập, sự quan tâm ít hơn, kém hơn, công tác dân vận lơ là. Bởi vậy họ nghĩ rằng mình phụ họ, nên họ có niềm tin, tín ngưỡng mới, không còn gắn kết được với nhau thì lơ là nhả ra thôi, đó là quy luật. Với cái nhìn của một nhà sử học, của một thiền sư bất lập văn tự, khi nhìn đến viễn cảnh mất còn của đất nước Sư Ông chỉ còn viết ra được bốn chữ này thôi: "ĐỪNG PHỤ SUỐI ĐỒI".

Một nghĩa nữa:

Mình phụ suối đồi, núi đồi, thì suối đồi, núi đồi sẽ chết. Mà núi chết thì sông chết, và với thuyết nhân quả, duyên sinh của nhà Phật: "Chúng ta tồn tại là tồn tại trong mối tương quan của muôn loài vạn hữu, con chuồn chuồn, con bươm bướm, con chim họa mi... kia sẽ chết trong môi trường không khí bị ô nhiễm, thì con người ta cũng sẽ chịu chung số phận thôi. Con cá, con tôm, con ốc... sống không nổi trong môi trường nước bị ô nhiễm, thì con người cũng chung số phận thôi".

Tôi đã hiểu vì sao trong những buổi thiền trà, trong những bữa cơm im lặng Sư Ông đã dặn dò nhắc nhở đệ tử mình chỉ dùng những chiếc lá để đựng kẹo bánh, thức ăn. Không dùng bì ni lon, giấy... để giữ cho mẹ đất có tuổi thọ dài lâu.

"ĐỪNG PHỤ SUỐI ĐỒI" là thông điệp quan trọng nhất mà Sư Ông Thích Nhất Hạnh thương gởi đến chúng ta, để chúng ta suy ngẫm mà đóng góp công sức mình trong công việc giữ yên đất nước, và cầu mong Tổ quốc mãi mãi thanh bình, thịnh vượng cho tương lai con cháu chúng ta thụ hưởng.

Gia Lai, ngày 14.10.2016
Thích Giác Tâm
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5428)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10434)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9243)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6542)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8942)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5109)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5303)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5741)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4612)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5195)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]