Tôi có người đệ tử, đi nước ngoài về tặng cho tôi một bức thư pháp có chữ Smile (mỉm cười) của Thiền Sư Nhất Hạnh. Chữ viết bằng bút lông , mực tàu trên giấy dó. Tôi rất trân quý bức thư pháp này, trong ngày luôn nhìn chữ Smile, để tập cười, tập nuôi dưỡng chánh niệm (bởi vì tôi cũng rất khó cười).
Thiền Sư Nhất Hạnh, tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926 là một Thiền Sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình người Việt Nam. Gốc tổ tiên người Thanh Hóa, sinh trưởng và lớn lên tại Huế, xuất gia tu học tại chùa Từ Hiếu - Huế, năm 16 tuổi. Là một Tăng Sĩ có cái nhìn xa rộng cho đạo Phật, trong khi giới Phật giáo thời bấy giờ chỉ biết học chữ Hán, và nội điển , thì Thiền Sư đã xin học Pháp văn, quốc ngữ ...và sau này là Anh văn, tìm hiểu tư tưởng triết học phương tây để đối chiếu với nền triết học Phật giáo, triết học phương đông. Thiền Sư (từ đây xin được gọi bằng từ Sư Ông cho thân mật hơn) thấy Phật giáo trong giai đoạn đó cũ quá, cần phải làm mới, hiện đại hóa để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại, và để cho giới trẻ giới trí thức tìm về với đạo Phật, Sư Ông đã thành công trên lãnh vực này.
Sư Ông viết trên 100 đầu sách , trong đó có khoảng 40 cuốn được dịch với nhiều ngôn ngữ khác nhau, có sách thuộc loại bán chạy nhất (best-seller) ở tây phương. Hiện Sư Ông cư trú ở trung tâm thiền học Làng Mai, Pháp Quốc.
Sư Ông trưởng thành trong giai đoạn đất nước Việt Nam chúng ta bị Pháp đô hộ, đạo Phật bị kỳ thị xem thường và tìm cách loại bỏ. Tiếp theo là cuộc chiến tranh Việt - Mỹ, hằng ngày chứng kiến cảnh bom đạn tàn phá quê hương, Sư Ông đã thành lập trường "thanh niên phụng sự xã hội" để giúp đỡ đồng bào trong cuộc chiến. Chính từ chứng kiến sự tàn khốc đỗ vỡ, tang thương điêu linh trong cuộc chiến mà trong giai đoạn này hiếm khi thấy Sư Ông cười, lúc nào cũng đăm chiêu, suy tư, lo lắng.
Cho đến khi Sư Ông qua phương tây dạy học, tranh đấu vận động hòa bình cho Việt Nam rồi thành lập trung tâm thiền học Làng Mai, Pháp Quốc. Thời gian này Sư Ông chuyên tâm thiền định, nghiên cứu, diễn giảng, dạy cho đệ tử, Sư Ông mới chú trọng đến nụ cười, và Sư Ông cũng tập cười, nuôi dưỡng nụ cười. Ban đầu Sư Ông cười cũng không đẹp lắm đâu, cười không được tự nhiên, nhưng rồi càng về sau Sư Ông cười càng đẹp. Tác phẩm mà chúng tôi có được năm 1977, mua tại Sài Gòn có tựa đề "Hàm tiếu thiền" in chui trên giấy rất xấu, sau này được in chính thức có tên "Phép lạ của sự tỉnh thức".
Trong năm 2005 và 2007 tăng đoàn Làng Mai về Việt Nam, thuyết giảng hướng dẫn tu học, chúng ta đã thấy được các Thầy, các Sư Cô trẻ trong tăng đoàn đều ăn nói nhỏ nhẹ, có nụ cười thật đẹp, gương mặt thật phúc hậu tươi mát. Trong tu học các vị đã nếm được, trải nghiệm được niềm vui của Thiền "Hiện pháp lạc trú" do Thầy mình chỉ dạy.
Sư Ông vừa trải qua một cơn bạo bệnh, nay thì đã đã hồi phục đang tập nói, tập cười với tuổi đời 90.
Để có một nụ cười đẹp, trọn vẹn một nụ cười trong suốt một kiếp người, chúng ta thấy cũng thật là khó. Vậy, nếu ai có được nụ cười đẹp mà không cười thì uổng phí quá !
Viết bài này chúng tôi xin được cung kính đảnh lễ tri ân Sư Ông, người đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam dạy quần chúng Phật tử tu hành bằng pháp môn cười, để kết nối mọi người lại với nhau, cười được là chúng ta sẽ đến được với nhau, cho dù có khác nhau về chính kiến, ý thức hệ, tôn giáo, chủng tộc... Và khi đã đến được với nhau rồi thì cuộc đời này sẽ đẹp hơn, vui hơn, an lạc hơn.
Cầu Phật gia hộ cho Sư Ông khỏe mạnh trở lại, có được giọng nói trầm ấm như xưa, có được nụ cười đẹp nhất an lạc nhất, như nụ cười mà Sư Ông có được khi được các đệ tử thưa lại rằng:" Số tiền và phẩm vật Sư Ông gởi về Việt Nam làm từ thiện giúp đỡ các học sinh ,sinh viên hiếu học, nhưng có hoàn cảnh khó khăn, trong chương trình từ thiện Hiểu và Thương đã đến tay người nhận".
Sư Ông hướng dẫn đệ tử mình thực tập cười bằng một bài thi kệ:
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận.
Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch.
Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ.
Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian.
Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.”
“Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử.
Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
Pháp Học và Pháp Hành
Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành.
Vậy pháp học là gì ?
Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm.
Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
LỜI GIỚI THIỆU
“Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn.
Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
LỜI NÓI ĐẦU
Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
Lời Nói Đầu
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn
Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát.
Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni,
Kính thưa quý Phật tử,
Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán.
Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.