Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mùi hương giải thoát

06/09/201610:20(Xem: 6860)
Mùi hương giải thoát
lotus_4
MÙI HƯƠNG GIẢI THOÁT
 
Như Hùng

 

Trong sáu căn, mắt tai mũi lưỡi thân ý, có những căn ta thường xuyên xử dụng, cũng có những căn ta ít xử dụng hơn. Ta có thể nhắm mắt lại để không thấy, bịt tailại để không nghe, im lặng không nói năng, không làm gì cả, dừng mọi suy nghĩ. Ta cũng có thể không thấy, không nghe không biết,không làm,không động đậy, nhưng ta không thể không thở.

 

Chiếc mũi đã quan trọng hơi thở lại càng quan trọng hơn, khi ta không kiểm soát được hơi thở, lo sợ bồn chồn bất an, bị trầm cảm, lo lắng quá độ, hơi thở hồi hộp rối loạn, đứt đoạn, tim đập nhanh loạn nhịp, máu huyết tăng cao, sẽ làm cho ta dễ bị tai biến mạch máu não, như vậy sẽ khổ một đời.Chỉ một hơi thở, một hơi thôi, nhưng nếu ta không hítvào thở ra được, khí oxy không đưa vào nuôi cơ thể não bộ, lập tức ta chết ngay.

Chiếc mũi,ngoài chức năng chính là hít thởđể duy trì sự sống, thì mũi của ta kể ra cũng thật là tài tình.Nó có thể ngửi được những việc ở gần, đánh hơi phát hiện ranhững chuyện ở xa.Nórấtthính bén nhạymẫn cảm, lại phối hợp với ý thức,nên mức độtưởng tượngdồi dàođa dạng phong phú tinh tế vô cùng.

 

Thông thường mũicủa ta ưathích những gìthơmtho hương sắc,những gì hấp dẫn gọi mời, quen ngửi mùi hương bất tịnh, những hưng phấnsay đắm mê mẫn lòng người. Ngược lại, dị ứng với những mùinồng nặc hôi thúi uế trược, những mùi khó ngửi khó chịu khó thương, làm cho ta xa lánh tránh mau.Cho dù xa hay gần nhưng khi nó đánh hơi phát hiện, khi không bằng lòng bất như ý, không thích không ưa, thì ngoãnh mặt làm ngơ,quay đầu bỏ đi không thèm ngó lại. Những gì tỏa sắc đọng hương, thơm lừng quyến rũ, dù cho vất vả gian nan, cũng ra sức bỏ công nhọc lòng tìm tới.

 

Những gì làm cho náo lòng nức mũi,mê mẩn tâm thần, thì không thể nào quên được,vương vấn đêm ngày gợi nhớ trông mong.Những gì hôi hám, những gì ghê tởm xấu xa,buồn nôn,không thể nào ngửi nổi, thì lại bịt mũi nín thở, chạy nhanhtìm đường trốn tránh.Khi đánh hơi thấy bất lợi cho mình, không hợp không xứng không vừa lòng, thì lại lặng lẽ chuồn êm, tìm cách lánh xa.Nhưng khi ngửiđược cơ hội,có lợi có danh,vừa lòng hợp ý,cung phụng bản ngã lớn to, thì lập tức nhào đến không cần gọi mời. Ôi!chiếc mũi của ta thật là tài tình và cũng lắmgian nan, làm cho ta dỡ khóc dỡ cười.

Chiếc mũi dọc dừa khiến bao người thầm mong trộm nhớ, chiếc mũi xinh xinh khiến bao kẻ đợi người chờ. Chiếc mũi cao sang khiến bao người ước ao chiếm hữu.Chiếc mũi dễ thương khiến bao kẻngẩn ngơ dệt mộng.Chiếc mũi thanh cao khiến bao người ấp ủ nâng niu.Chiếc mũi người thương kẻ nhớ,có những chiếc mũi không cần gọi tên,không có tên gọi, nhưng để lại trong ta dấu ấn đậm sâu,một đời không quên.

 

Bên cạnh cái đẹp cái cao sang từ chiếc mũi thì cũng có những chiếc mũi làm cho kẻ khác đắn đodo dự.Chiếc mũi làm đẹp, chiếc mũi thẩm mỹ, chiếc mũi được bàn tay con người can thiệp.Ngoài ra người ta còn viện dẫn nhiều lý do, đặt ra tiêu chuẩn thế nào là chiếc mũi đẹp, cũng vì chạy theo cái đẹp, talàm cho mũi đau tâm khổ.Lại có những chiếc mũi mà những người tin vào tướng số lo lắng ngại ngùng, cũng có đủ thứ đủ kiểu lắm trò cho chiếc mũi.Khi mũi bị dị ứng, nước mũi nước mắt tuôn trào, hoặc vì lý do sức khỏe có sự can thiệp của y khoa, phải thông qua mũi, dây nhợ tùm lum, làm cho ta chần chừ suy nghĩ, xót xa đắng lòng.

 

Ngửi mùi hương của nhan sắc, những in dấu trên thân thể, những đọng lại trên tóc trên da thịt, những dư âm hương vị của nước hoa, của phấn son xiêm y lụa là, vẻ đẹp say sưa ngây ngất còn đọng lại đâu đây. Mùi quyến rũ của người khác phái, dáng vẻbắt mắt đáng yêu của ai đó, tất cả cứ thế đọng lại trong khứu giác, thấm vào trong tim, lòng ngất ngây, mũi phơi phới, hương thoang thoảng, vương vấn vấn vương,chẳng biết lúc nào mới buông bỏ xuống được.

 

Khi mũidị ứng,chẳng thơm tho, thì tâm ta theo đó lại càng không thích, khó chịu chẳng ưa, nhưng khi đãquen hơi quen mùi,quen chỗ quen nơi, thì lại lưu luyến đắm say,khắc dạ để tâm.Khi ta vận dụng đến năng khiếukhác, xoay chiều đổi hướng, không khéo thì ý thức xen vào gây lũng đọan, sai sử so sánh phân biệt.Mọi chuyện mọi thứ mọi việc,dù xa hay gần, thời gian không gian,lớn hay nhỏ,những gì xảy ra,có liên quan đến hay không. Một khi mũi đánh hơi phát hiện, cọng với mức độ tưởng tượng dồi dào, phóng đại nâng cao, sự việc sẽ được viện dẫnphân tích dưới mọi góc độ, tùy vào sự phán đoán chủ quan nhiều hay ít.

 

Ở vào thời đại thông tin mạng lưới toàn cầu,khả năng đánh hơi của mũilại vô cùng tinh vi đa dạng, lại thêm ta vận dụng tối đa các căn, suy diễn dẫn dắt, nắm bắt lung tung, bày trò dẫn đưa lạc lối, làm sụp đổ lung lay mọi thứ, rối bời rối bong đưa đến nguy hại không lường.Nó lắm việc nhiều chuyện, nhập nhằng lẫn lộn, đánh hơi quá khứ hiện tại tương lai, vượt thời gian không gian, ngửi được mọi thứ chung quanh cho dù không nghe không thấy. Mức độ tưởng tượng thâm sâu,nắm bắt tức thì, lập kế bày mưu, kẻ hứng người đưa, dấu mặt đặt tên, thật lòng hiếm gặp, hỷ hả tung hô, quyết lòng chiếm đoạt, nhanh chân trốn chạy.Chỉ cần vuốt ve bản ngã,thỏa mãn bản nănglà xong, gợi óc tò mò là được, đáp án đúng sai không cần quan tâm, không kể hậu quả ra sao, lợi hại tốt xấu mặc kệ, nhẫn tâm vô tình.

 

Thật ra, nếu chỉ là mùi hươngthơmtho hay hôi thối, tự nó tỏa ra lan đến,ngửi chỉ để mà ngửi, chỉ làm tròn chức năng thông thường của nó, ta không tác ý móng tâm, thì làm sao có thể gây phiền gây khổ, thì làm gì nên tộinên tình?Nhưng khổ một nỗi, lỗi ở ta mọi đàng, dotâm thức của ta tương tác với cảnh duyên, khởi lên muôn ngàn sai biệt, chấp vào níu lại không chịu để yên. Nên khiến cho ta đắm nhiễm si mê dại khờ,mới chìm mới lận đận nơi sông mê bể ái, luân hồi sanh tử dạo quanh lối mộng.

 

Thương ghét, tham ái, mê mẩn đắm say, nếu không chuyển hóa buông xuống bỏ đi, quyết lòng rời xa vượt thoát, thì lận đận lại càng lận đận, khổ đau lại càng khổ đau, đau dài dài đau mãi mãi. Đã đến lúc ta phải hít thật sâu thật lâu, để cho bình an thư thái trú ngụ, để cho buồng phổi đầy ắp sự trong lành, đẩy đưa uế trược ra ngoài, thường xuyên giữ tâm thong thả, thở ra thở vào thật trọn vẹn tốt đẹp, làm mới chính mình cho được rạng rỡ quang huy.

 

Tất cả đều tùy vào trạng thái tâm sinh lý, hỷ nộ ái ố, những vui buồn bất chợt, những được mất hơn thua,đều làm cho hơi thở đổi thay, nhanh chậm thất thường, biểu lộ trạng thái bất an xâm chiếm. Khi ta khó thở, nặng nềdồn dập, khò khè, ta phải lưu ý đến đường hô hấp, nhớ quan tâm đến sức khỏe của mình.

 

Môi trường sống của ta có được trong lành ít ô nhiễm, thì mũi ít bị dị ứng, ít nhiễm bệnh, những bệnh về mũi do mũi gây ra không ít thì nhiều sẽ ảnh hưởng đếnlá phổi của ta. Nhiều khi ta lạm dụng quá mức, hít vào những thứ ô nhiễm độc hại, những thứ làm cho ta mê mẩn tâm thần, tâm ý dẫn dắt sai lệch, nghĩ tưởng quá nhiều,biến tướng biến chất,đảo lộn chức năng, đều gây tổn hại cho thân tâm, ta phải xem xét cho thật kỷ càng, chớ đừng đụng vào, dính vào.

 

Cuộc sống của ta lúc nào cũng bị vô thường chi phối tác động, đến một ngày nào đó bệnh tật réo gọi, mắt ta mờ không thấy, tai ta không còn nghe được, miệng ta không đưa thức ăn vào được, phải nhờ đến ống đến dây, thân ta nằm bất động phải nương tựa vào người khác, dựa dẫm vào y khoa, đầu óc ta không còn minh mẫn. Dù sống lây lất nhưng ta vẫn chưa chết đưọc, nhưng khi mũi ta không thở vào dù chỉ một hơi, ta chết ngay tức khắc. Dù vậy, mấy ai trong chúng ta ra đi nhẹ nhàng, giã từ cuộc chơi mà không vấn vương, đành lòng ra đi, cam chịu mà đi, không bị nghiệp quả hành hạ?

 

Ta không thể cứ mãi ở đó để rồi than thân trách phận, đổ thừa cho nghiệp quả số phận. Nghiệp quả tốt hay xấu đều do ta tác tạo, quả lành hay ác cũng đều do ta gây nên, ta phải cưu mang nhận lãnh, chẳng có ai thế vào gánh dùm. Khi nào còn tác nhân, tác ý thì còn phải tác quả tác nghiệp, khi nào tác nhân tốt tác ý thiện thì được quả lành ý tốt, rõ ràng như thế không hề sai chạy.

 

Thông thường tại tachỉ lo o bế nâng niu sáu tên giặc,  khôngchịu chuyển hóa thành bạn đồng hành tri kỷ,không biết cách chế ngự phòng ngừa, không nổ lực tu tập, không thực hành theochánh pháp, mới khiến cho ta mãi trầm luân trôi dạt trong sáu cõi ba đường. Từ trước đến nay đêm ngày ta đau khổ, ray rức phiền hà, chán chường lo lắng,cũng do sáu tên giặc đó tác yêu tác quái, rủ rê mê hoặc, khiến ta cắm đầu chúi mũi chạy theo, không biết đường ngay lối thẳng,không rõ nguồn cơn, khôngbiết đâu là bờ mê bến ngộ lối về.

Ta mua vui trong chốc lát,ta tìm quên trong phút giây,ta lỡ dại trong sát na, nhưng hậu quả thì vô cùng nguy hại về lâu về dài. Ta quyết chí không đụng vào hít vào, không ngửi qua những chất độc hại, những thứ gây nghiện,những thứ làm cho ta mê mẫn ngất ngây,những gì làm cho trí tuệ lu mờ, những thứ làm cho thần trí đảo điên, những gì làm ô tâm nhiễm tánh, những thứ khiến cho ta si mê dại khờ đớn đau. Ta phải lánh xa trốn thật kỷ không được mó vào, ta phải lắc đầu khước từ chạy cho lẹ cho nhanh đừng để dính phải, đừng để hại ta phiền người, một đời đau khổ.

 

Hơi thở cực kỳ quan trọng cho sự sống của ta, nương vào  hơi thở để ta tu tập cũng quan trọng không kém. Thay vì tiếp tục để cho mũi đánh hơi nhầm lẫn, phát hiện bừa bãi, dẫn ta đi sai đường lạc lối, bây giờ ta biết gìn giữ hơi thở, “thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mĩm cười”. Ta thực tập trong từng phút giây, quán sát hơi thở, nhận biết hơi thở vào ra, tâm ta tinh tường thấu đáo, an lành tĩnh thức. Chỉ khi đó và lúc ấy ta mới an nhiên sống vui sống đẹp, cuộc đời mới trở nên đáng yêu đáng quý, ta mới thong dong thảnh thơi trong mọi nghĩ suy tác tạo, được vậy thì còn gì quý giá bằng.

 

Cũng nhờ chiếc mũi này mà ta biết gìn giữ hơi thở, kéo tâm lang thang của ta về một mối, sáng soi cõi lòng tấc dạ. “Thở vào, người ấy biết rằng mình thở vào; thở ra, người ấy biết rằng mình thở ra.”Nhờ vậy con đường đi đến giác ngộ thênh thang lộng gió, từng bước đi hoa cỏ đón chào, đời sống ta luôn được trân trọng cao đẹp an lành, khắp chốn mọi nơi.

 

Chiếc mũi ngửi mùi hương giải thoát, không vướng cảnh vướng người, hít vào tràn ngập yêu thương, thở ra tâm lành ban trãi.Chiếc mũi diệu kỳ, đánh hơi được luân hồi nhân quả để tránh, phát hiện phiền não khổ đau để một lòng cầu đạo vô thượng. Chiếc mũituyệt vời ngửi được hương thơm của giác ngộ, phát hiện ra những ngăn che bám víu vướng bận để tiêu trừ. Chiếc mũi diệu vợi cao cao,là khi căn, trần, thức, không còn làm hề hấn, thênh thang rộng mở trên mọi đi về.Chiếc mũi cao quý, thoát ra ngoài hương sắc nhiễm ô, vượt khỏi càn khôn về với vô tận miên trường.

 

Trong sách Khóa Hư Lục, phần Sám Hối Sáu Căn được vua Trần Thái Tông (1218-1277) sáng tác có đoạn đề cập về mũi như sau:

 

Nghiệp căn Mũi là:


Thường tham mùi lạ, trăm thứ ngạt ngào,
Chẳng thích chơn hương, năm phần thanh tịnh.
Lan xông xạ ướp, chỉ thích tìm tòi,
Giới định huân hương, chưa từng để mũi.
Trầm đàn thiêu đốt, đặt trước Phật đài,
Nghểnh cổ hít hơi, trộm hương phẩy khói.
Theo dõi hương trần, Long thần chẳng nể,
Chỉ thích mùi xằng, trọn không chán mỏi.
Mặt đào má hạnh, lôi kéo chẳng lìa,
Cây giác hoa tâm, xây đi không đoái.
Hoặc ra phố chợ, hoặc vào bếp sau,
Thấy bẩn thèm ăn, ưa nhơ kiếm nuốt.
Chẳng ngại tanh hôi, không kiêng ngũ vị,
Mê mãi không nghĩ, như lợn nằm chuồng.
Hoặc chảy nước mũi, hoặc hỉ đàm vàng,
Bôi cột quẹt thềm, làm nhơ đất sạch.
Hoặc say nằm ngủ, điện Phật phòng Tăng,
Hai mũi thở hơi, xông kinh nhơ tượng.
Ngửi sen thành trộm, nghe mùi động tâm,
Không biết không hay, đều do nghiệp mũi,
Những tội như thế, vô lượng vô biên,
Sau khi mạng chung, đọa ba đường khổ.
Trải ngàn muôn kiếp, mới được làm người,
Dù được làm người, quả báo bệnh mũi.

Nếu không sám hối khó được tiêu trừ

Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.

 

Đệ tử chúng con, chí tâm phát nguyện:

 

Một nguyện ra hết, tà kiến loạn tâm,

Hai nguyện nhận vào, tuệ hương xông ướp,

Ba nguyện đóng thành, cửa vô lậu nghiệp,

Bốn nguyện ho tan, trần cấu hữu duyên,

Năm nguyện lôi về, con đường tam bảo,

Sáu nguyện ngáp nát, bốn loài sanh linh,

Bảy nguyện thở trừ, các chướng phiền não,

Tám nguyện ngửi được, hoa tươi giác ngộ,

Chín nguyện thường thông, giống các pháp lành,

Mười nguyện hằng lấp, nhân ngũ vị tân,

Nguyện thứ mười một, về dạo biển tánh,

Và nguyện mười hai, ra khỏi bến mê.

 

 

Ta vượt khỏi sông mê bể ái, về dạo biển tánh ngời trong sáng soi một cõi, là khi ta đem hết tâm can, ngừng mọi lang thang đếm bước, giật mình tĩnh mộng, quán chiếu tư duy tròn đầy. Khi nào thật sự và chính thức, ngửi được mùi hương an lành của tự tâm lan tỏa, của con tim đong đầy yêu thương nhân ái, của tâm thức ngào ngạt hương thơm của giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến hương,đó mới là chiếc mũi tuyệt vời, vượt ra ngoài thời gian lẫn không gian.

 

Hương thơmtinh khiết của giới đức, hương cao đẹp của đức hạnh,hương bất diệt của từ bi trí tuệ, là do mình biết vâng phục gìn giữ trân trọng những giá trị cao quý. Những gì làm cho nhân phẩm của mình được hoàn thiện thanh cao, tâm tư của mình được thăng hoa tươi đẹp, một lòng một dạ vâng giữ thực hành, hết lòng trọn kiếp tu tập, thành tựu đạo giác ngộ giải thoát. Còn đó, hương thơm một cõi, ra tay cứu độ, dấn bước lên đường, nhập vào dòng chuyển lưu mà lúc nào cũng tự tại, mang lại an lạc cho mình và tha nhân.

 

Trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở, bản dịch của Thiền sư Thích Nhất Hạnh có đoạn:

"Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát.

"Làm thế nào để phát triển và thực tập liên tục phép quán niệm hơi thở, để phép này mang lại những thành quả và lợi lạc lớn?

“Này đây, quý vị khất sĩ!Người hành giả đi vào rừng hoặc tới một gốc cây, nơi vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thế hoa sen, giữ thân cho thẳng và đặt vững chánh niệm trước mặt mình.Thở vào, người ấy biết rằng mình thở vào; thở ra, người ấy biết rằng mình thở ra.

1. Thở vào một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi dài.

2. Thở vào một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi ngắn.

3. Ta đang thở vào và có ý thức về toàn thân ta. Ta đang thở ra và có ý thức về toàn thân ta. Người ấy thực tập như thế.

4. Ta đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho toàn thân an tịnh. Người ấy thực tập như thế.

5. Ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui. Ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui. Người ấy thực tập như thế.

6. Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc. Ta đang thở ra và cảm thấy an lạc. Người ấy thực tập như thế.

7. Ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta. Ta đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta. Người ấy thực tập như thế.

8. Ta đang thở vào và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được an tịnh. Người ấy thực tập như thế.

9. Ta đang thở vào và có ý thức về tâm ý ta. Ta đang thở ra và có ý thức về tâm ý ta. Người ấy thực tập như thế.

10. Ta đang thở vào và làm cho tâm ý ta hoan lạc. Ta đang thở ra và làm cho tâm ý ta hoan lạc. Người ấy thực tập như thế.

11. Ta đang thở vào và thu nhiếp tâm ý ta vào định. Ta đang thở ra và thu nhiếp tâm ý ta vào định. Người ấy thực tập như thế.

12. Ta đang thở vào và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do. Ta đang thở ra và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do. Người ấy thực tập như thế.

13. Ta đang thở vào và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.

14. Ta đang thở vào và quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.

15. Ta đang thở vào và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.

16. Ta đang thở vào và quán chiếu về sự buông bỏ. Ta đang thở ra và quán chiếu về sự buông bỏ. Người ấy thực tập như thế.”

 

Ta tu tập cho thật vững chãi, tâm bình an cõi lòng lắng đọng, bỏ buông thư thả, thấy như là không thấy, nghe mà không nghe, làm mà không làm, không trụ bám níu kéo. Mũi ngửi mà tâm không vướng, thở vào ra tĩnh thức trên từng tư duy tác tạo,mùi thơm hay thối cũng chẳng bận lòng, thân tâm luôn thanh tịnh, thì còn gì cao quý bằng.

 

Chiếc mũi của ta, hơi thở của riêng mình, con đường ta đi thênh thang thông suốt, ý ta tĩnh lặng tròn đầy, tâm ta trong sáng lặng yên, mũi ta thở ra vào đầy hương giải thoát.Chỉ có hương thơmcủa đạo hạnh, giới đức, trí tuệ từ bi, an lạc,mới tỏa thơm tinh khiết lồng lộng thường hằng trong cõi nhân sinh.Thở vào, thở ra, vi diệu, tuyệt vời.

 

Như Hùng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16156)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3747)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6129)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6322)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 4021)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8372)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5647)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15671)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10869)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7968)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]