Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Phật Là Sống Trong Tiếng Gọi Của Đấng Giác Ngộ

03/09/201620:16(Xem: 8744)
Niệm Phật Là Sống Trong Tiếng Gọi Của Đấng Giác Ngộ
NIỆM PHẬT 
SỐNG TRONG TIẾNG GỌI
CỦA ĐẤNG GIÁC NGỘ

 niemphat

 

TIẾNG GỌI CỦA CỌP

Một nhà văn kể chuyện "Cọp Hú" như sau:

          Ngày trước, ở phía Nam có một chàng thư sinh ra Huế ứng thí, nhưng người vợ không yên tâm vì lo ngại sau khi thành đạt chồng sẽ phụ rẫy mình. Chàng thư sinh bèn thề độc cốt để vợ vui lòng.

          - Quỷ thần chứng giám, sau này đỗ đạt mà phụ nghĩa tào khang, thì tôi sẽ bị cọp hú !

          Với lời thề độc địa như thế, dĩ nhiên, người vợ yên tâm để chồng ra đi.

          Kỳ thi ấy, chàng thư sinh thi đậu Tiến sĩ, rồi được ông quan thượng thư trong triều nhận làm rể quý. Người vợ cùng đứa con gái đợi ngày “bái tổ vinh quy” của chồng và cha nhưng chẳng bao giờ gặp mặt. Cuối cùng người vợ đau buồn rồi chết trong mòn mỏi.

          Mười năm sau, đứa con gái ra Huế tìm cha và nhắc lời thề cũ. Người cha ân hận vô cùng, bèn đứa con gái khăn gói về Nam thăm lại quê xưa để cầu khẩn trước vong linh vợ hãy tha thứ và quên lời thề trước đây của mình. Lúc đi đến vùng Khánh Hoà thì gặp cọp. Hai cha con rút binh khí ra đánh một hồi, con cọp cúp đuôi chạy. Đến đỉnh núi, nó dừng chân, thở rốc. Và kỳ lạ thay, nó ngửa mặt lên trời, hú từng hồi dài.

          Người cha giờ này chỉ biết hành động theo tiếng hú của cọp, khuôn mặt ông ta đờ đẫn, man dại hẳn. Hàm răng nghiến đanh lại. Đôi mắt trợn trừng nhìn vào không trung và chỉ biết hươi kiếm sang tấn công đứa con gái. Cọp hú mạnh và nhanh thì ông ta đánh dữ dằn, lẹ làng. Cọp hú chậm rãi, nho nhỏ, thì ông ta lơi lỏng nhát kiếm hơn và đường kiếm cũng yếu ớt hơn. Có lúc mệt quá, cọp thu mình bên vệ đường, nghỉ ngơi dưỡng sức nhưng vẫn gân cổ hú từng tiếng nhát gừng, thì ông ta cũng xông vào mình con gái, chém những nhát kiếm rời rạc, uể oải, ông ta chỉ còn là một gã tay sai đắc lực của con cọp mà thôi, giờ này.

          Trước khi chạy vào rừng sâu, cọp hú một tiếng thấu trời, người cha bỗng dưng đứng yên như phỗng, cọp tát mạnh vào mặt, lấy bàn chân trước moi quả tim ông ta, bỏ vào mồm và dông thẳng. Thiếu nữ ôm thây cha, khóc lóc.

          …

          Có lẽ vài người trong chúng ta sẽ bĩu môi, hoặc cười khẩy khi nghe xong câu chuyện Cọp Hú này. Chậc, thời buổi khoa học hiện đại, thì tìm đâu ra một đầu óc ngây ngô để tin những chuyện có vẻ huyễn hoặc như thế? Nhưng, nếu chúng ta bình tâm một chút, thì chúng ta sẽ phát hiện những cái "thực hơn cả sự thực" nữa, trong câu chuyện vừa kể.

          Khi những chú cọp ở đâu đâu tận bên Mỹ bên Tây hú lên thì cùng lúc ấy, con cháu chúng ta vội vã ghi danh học tiếng Anh tiếng Mỹ. Cọp bên Nhật bên Đại hàn mà buông những tiếng hú khêu gợi thì con cháu chúng ta làm đơn xin phỏng vấn tới tấp. Khi những chú cọp “cậy thế cậy quyền” mà rú lên vài tràng dài, thì chúng ta ai nấy đều nhảy cẫng lên như lambađa, rồi hành động bất chấp luân thường đạo lý, thực hiện cho kỳ được những ý đồ của tiếng hú, thậm chí làm những việc phản nhân tính, phản dân tộc nữa là đằng khác.

          Về khía cạnh đời sống, chỉ tính trong một ngày, ta đã bị bao nhiêu tiếng cọp hú điều động sinh hoạt của mình? Ta vạch mặt chỉ tên được bao nhiêu chú cọp tham lam, giận dữ, đang ẩn nấp đâu đó quanh ta? Hỡi ôi, cọp đâu mà nhiều lắm thế? Trời sinh ta ra, sao còn sinh chi loài cọp? Ờ, mà không có cọp thì ta biết sống với ai?

          Vào tuổi trung niên, còn nhiều thứ cọp đua nhau xé nát đời ta thành trăm ngàn mảnh. Cọp Danh Vọng khiến ta phải bon chen thu gom vài chút địa vị, quyền lực. Cọp phi pháp khiến ta làm những việc hối lộ, móc ngoặc. Cọp Tham nhũng khiến ta vào nhà đá gỡ lịch. Cọp Dối Trá lúc nào cũng hú dai nhách, quyến rũ chúng ta lừa bịp cả chính ta.     

Đại khái, bạn chắc cũng đã cảm nhận sức mạnh vô địch, khủng khiếp của tiếng cọp hú. Rõ ràng. Cụ thể. Gần gũi. Thế nhưng, từ quá lâu rồi, chúng ta bắt tay hòa bình và sống chung với tiếng cọp hú một cách thân thiết, dứt không nổi, bỏ không được. Thú thật, giả thử một hôm nào đó, chú cọp trong lòng ta bỗng ngậm mõm ngưng hú, thì chúng ta e cũng chịu hết nổi, như trống vắng cái gì đó.

          Tệ mạt hơn, nhiều khi chúng ta trót đồng hóa bản thân với tiếng cọp hú. Ta là cọp, và cọp là ta. Cọp hú tức là ta đang hú. Say sưa. Diễn cảm. Hùng hồn. Bởi lẽ, trong những tiếng hú vang vọng mười phương kia, chúng ta thấp thoáng bóng dáng của chính mình. Cái ngã chấp to lón như núi Tu-di của ta đang tìm được sự thỏa mãn trong tiếng hú ấy, nghĩa là ... chúng ta đang hú, chứ chẳng phải chú cọp chú cuội nào cả!

          Trường hợp một kẻ nào đó may mắn nhặt được chút “tỉnh thức” nhỏ bé, bỗng nổi máu anh hùng, rắp tâm muốn trốn chạy khỏi ma lực hấp dẫn của tiếng cọp hú, nhưng làm sao bây giờ? Cũng có kẻ quen thói giang hồ hiệp khách, khi biết mình lâu nay té ra chỉ là tay sai bất đắc dĩ của cọp, bèn nổi trận lôi đình, vận cả mười hai thành công lực để bắt con cọp cho kỳ được mới thôi. Nhưng, có ai biết nó ở đâu, làm gì, - lý lịch, vóc dáng ra sao, gốc gác hành vi thế nào ?

NHỮNG TIẾNG GỌI KHÁC Ở TRONG TA

Có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi nghịch lý mà vô cùng cần thiết như sau: Tại sao con cọp lại hú hoài mãi vậy kìa? Và chúng ta cũng tự cay đắng cho mình mà trả lời: Bởi vì mình khoái nghe tiếng hú của nó. Giả sử chúng ta đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ, thì nó hú cho ai? Mặc kệ nó chứ. Hoặc hú riết ắt nó sẽ mỏi hàm xai, rồi... nghỉ hú luôn, chứ sao!

Ừ, đúng rồi. Tại vì chúng ta không chịu lắng nghe tiếng nghe tiếng gọi của Tâm Hồn Ta, cuả Lương Tri, của Chân Lý (tiếng gọi chân như tâm), nên suốt kiếp cứ bị mê hoặc bởi đủ thứ âm thanh trên đời. Mà tiếng cọp hú chỉ là một trong những âm thanh ấy.         

          Kinh Niệm Phật Ba la mật nói: "Chúng sanh nơi cõi ta bà này, vốn lấy âm thanh làm thể". Cho nên tất cả sự nghiệp giáo hóa của đức Thích Ca đều đặt cơ sở trên lời nói và âm thanh, chứ không hề sử dụng văn tự, mặc dù thời bấy giờ đã sẵn có nhiều thứ văn tự hữu hiệu đang lưu bố trong dân gian. Bởi lẽ chư Phật biết rằng, chúng sanh bị khổ đau trói buộc chỉ vì âm thanh, mà hạnh phúc giải thoát cũng chỉ nương nhờ nơi âm thanh mà chứng viên thông.

          Thật vậy, giữa cuộc sống bình thường chúng ta luôn luôn bị chi phối bởi vô số tiếng gọi, vô số âm thanh đang bàng bạc khắp mọi nơi trong vũ trụ. Giáo lý nhà Phật tạm chia ra mười thứ tiếng gọi như sau:

1.- Tiếng gọi của Phật: còn gọi là Phật Âm, Sư tử Hống Âm, Đại Vân Lôi Âm, Vô Lậu Âm, Pháp Thân Viên Mãn Âm ... gồm đủ tám đặc tánh :

          a. Cực hảo âm : tức là tiếng tối thắng bậc nhất trên đời.

          b. Nhu nhuyến âm : tiếng dịu dàng, êm đềm, tha thiết.

          c. Hòa thích âm : tiếng gọi hòa thuận, dễ nghe, dễ rung cảm.

          d. Tôn huệ âm : tiếng gọi khiến chúng sanh phát khởi lòng tự tín và mở bày trí tuệ

          e. Bất nữ âm : tiếng gọi dũng mãnh, hùng hồn của đấng trượng phu.

          f. Bất ngộ âm : tiếng gọi chắc thật, dứt khoát, rõ nét, nghe chẳng lẫm lẫn, lộn xôn .

          g. Thâm viễn âm : tiếng gọi sâu thẳm, vang vọng, gần hay xa đều nghe rõ.

          h. Bất kiệt âm : tiếng gọi bền bỉ, vĩnh cửu, không dứt bặt.                           

          Tiếng gọi của Phật lúc nào cũng tương ứng với tâm toàn giác, chánh biến tri, đại bi đại trí tuệ, vô lượng vô biên công đức của tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông, tứ vô úy, thập lực, thập bát bất cọng ... được chứa đựng trong danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Có thể nói rằng, Nam mô A Di Đà Phật chính là tiếng gọi của Phật, là âm thanh tối thắng, viên mãn của Phật.

2.- Tiếng gọi của Bồ-tát : còn gọi là Diệu Âm, Quán Thế Âm, Phạm Âm, Hải Triều Âm, Đàn na ba la mật âm (tiếng gọi bố thí ba la mật), Bát nhã Ba la mật âm (tiếng gọi trí tuệ vượt bờ) Thiền Định ba la mật âm (tiếng gọi thiền định đủ khả năng đưa ta sang tận mé bờ kia) Thi la ba la mật âm (tiếng gọi trì giới vượt bờ mê) v.v...

          Tiếng gọi của Bồ-tát lúc nào cũng tương ứng với mười hạnh nguyện vĩ đại của Phổ Hiền, mười hai hoàng thệ nguyện của Quán Thế Âm, hoặc tương ứng với Thập Tín, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa của Bồ-tát. Tiếng gọi của Bồ-tát chính là tiếng gọi thoát khổ, cứu khổ cứu nạn. Tiếng gọi của Bồ-tát luôn luôn ban phát sự vô úy cho chúng sanh, khiến chúng sanh cắt lìa cái Tưởng của Sợ Hãi, Dày Vò, Bức Xúc ... Vì thế, kinh Pháp Hoa nói:

          Diệu Âm, Quán Thế Âm

          Phạm Âm, Hải Triều Âm

          thắng bỉ thế gian âm

          thị cố tu thường niệm ...                

3.- Tiếng gọi của Thanh Văn : là tiếng gọi giải thoát của những bậc Thánh, lấy tâm vô ngã quán sát tứ diệu đế, đắc A La Hán. Đây là tiếng gọi của sự ly dục, sự từ bỏ, sự cắt lìa tham ái, tiếng gọi của Niết bàn vắng lặng.

4.- Tiếng gọi của Duyên Giác

          Là tiếng gọi thanh tịnh vô vi của những bậc Thánh dùng tâm Vô Ngã quán sát thập nhị nhân duyên. là tiếng gọi giải thoát, của những bậc thánh đã dứt trừ phiền não, đoạn tận tham sân si, xóa sạch ngã chấp, không còn lưu luyến sinh tử.

5.- Tiếng gọi của Cõi Trời

          Là tiếng gọi của sự ham thích khoái lạc, dù là khoái lạc của tứ thiền, bát định cho đến khoái lạc của thiên đường cõi Dục, đều là những thứ an ổn giả tạo, hạnh phúc có điều kiện của chư thiên, chư tiên, nghĩa là những kẻ được triển hạn trầm luân. Mà lao ngục của họ dẫu được kiến tạo bằng thứ nguyên liệu vật chất có vẻ vi tế hơn, lộng lẫy hơn, phước báu hơn, nhưng cũng vẫn là kiếp sống đọa đày trong chiếc lồng son. Chúng sanh thường bị dày xéo bởi tám khổ, nên mơ ước khoái lạc này rồi mê say lắng nghe, khiến trôi chìm sanh tử mãi.

6.- Tiếng gọi của Loài Người

          Trong pháp giới, chỉ có Cõi Người là được chư Phật chư Bồ-tát thường xuyên vào ra thị hiện để thuyết pháp giáo hoá. Bởi lẽ loài người có đủ trí tuệ và tỉnh thức để thực hiện sự nghiệp tâm linh, có thể tiến bộ trên con đường giải thoát.

Nhưng loài người vốn bị quấy rầy bởi tình yêu (ái), của khát vọng (dục), và cho nên tiếng gọi của loài người cũng là tiếng gọi của thị phi, nhân ngã, bỉ thử (phân biệt trí). Đôi khi còn là tiếng gọi của tám khổ, mười triền, mười sử, lục căn, lục trần, lục thức. Nói chung, tiếng gọi của loài người là tiếng gọi của tám vạn bốn ngàn trần lao. Nhưng, trong phiền não khốn khổ ấy không loại trừ Nhân Tính, cái làm nên bản chất người.

Vì có nhân tính điều động trong mỗi hành vi, cho nên con người dù lâm vào hoàn cảnh cùng tột khổ đau thế nào đi nữa cũng vẫn khao khát Tự do, Công bằng, Bác ái, Vị tha. Hoặc là tiếng gọi của Nhân Nghĩa, của cương thường luân lý, dân tộc, tổ quốc, nhân bản, từ thiện ... Vì vậy, tiếng gọi của con người là tiếng gọi của tỉnh thức, của hướng thượng, chứa đựng ít nhiều thuộc tính từ bi, trí tuệ, tiền đề cho sự nghiệp giải thoát.

7.- Tiếng gọi của A tu la

          Là tiếng gọi của sự tranh đấu, hơn thua, của lòng kiêu mạn, sân hạn. Nghĩa là tiếng gọi của những kẻ làm việc thiện với ngã chấp kiên cố sâu dày. Đó là tiếng gọi của siêu nhân, anh hùng, tiếng gọi chọc trời khuấy nước vì tràn đầy những âm thanh gậy gộc giáo mác. Tiếng gọi khiến kẻ khác nuốt lệ căm hờn, vì chứa đựng âm thanh giết chóc, náo loạn, ghê gớm của bom hạch tâm, của quyền lực thống trị. Tiếng gọi A tu la cũng từng khiến những vị hào kiệt trên đường ra pháp trường còn khẳng khái tuyên bố hai mươi năm sau, sẽ có một tráng sĩ xuất hiện !

8.- Tiếng gọi của Quỷ Đói

          Là tiếng gọi của sự thèm khát mà không được thỏa mãn, của sự thiếu thốn mà không được đáp ứng. Hừng hực. Bực bội. Ấm ức. Tiếng gọi của lòng tham được phát triển quá độ hóa thành sư bỏn sẻn, ích kỷ. Tiếng gọi của những linh hồn co ro cô độc, không ai quan tâm, chẳng ai cúng kiến, hoặc của loài dã quỷ lẩn thẩn nơi chốn hoang dã mịt mù.

9.-Tiếng gọi của súc vật, thú vật

          Là tiếng gọi của sự sướng khổ vì cảm giác nhục dục, của "con lợn lòng", của những khoái lạc nhầy nhụa, trâng tráo, dơ bẩn, u mê. Đây là tiếng gọi của loài bốn chân, hai cánh, bẩm tánh ngu si, nếp sống tồi tàn, hôi hám, trần truồng ... như tiếng khọt khẹt của khỉ, be be của dê, à uôm của hổ báo, gâu gâu của chó, meo meo của mèo. Trong tiếng gọi của súc vật, ta thường cảm nhận chúng nó luôn luôn rên rỉ, ngậm hờn, u uất, sợ hãi, đó là những âm thanh bế tắc, tuyệt vọng, nghẹn tức trong yết hầu mà nói không ra được.

10.- Tiếng gọi của Địa Ngục

          Là tiếng gọi của sự tối tăm, mù lòa, của vô minh hoàn toàn. Đây là tiếng gọi thảm thiết, khốc liệt nhất của thế gian, là thứ âm thanh phát xuất từ lao tù, hình phạt, dụng cụ hành quyết, tra tấn.

Tiếng gọi của địa ngục còn là Tiếng gọi của tàn nhẫn, dửng dưng, lạnh nhạt. Tiếng gọi của lòng vô cảm, của máy móc, của chiến tranh bấm nút, của sản xuất dây chuyền, của sức mạnh tập thể.

          Tóm lại, tiếng gọi của địa ngục là những âm thanh thuần khổ, âm thanh cảm ứng với mười điều cực ác, những tư tưởng ngăn che sự sáng, những ý niệm chống báng đạo lý như thực, rời xa chánh pháp.

ÂM THANH NÀO ĐANG KÊU GỌI TA ?

          Mười loại âm thanh vừa kể, luôn luôn hiện hữu khắp trong vũ trụ, mà cũng mãi mãi hiện hữu trong chính ta. Vì giữa ta và vũ trụ nào phải là hai? Có gì khác biệt và cách biệt giữa vũ trụ và ta?

Nhưng, đó không phải là vấn đề, mà vấn đề là : âm thanh nào đang kêu gọi chúng ta? Cứ tiếp tục hỏi như vậy khoảng vài trăm triệu lần, thì bạn sẽ biết bạn là ai. Và tôi cũng sẽ hiểu mình là gì? Âm thanh nào đang kêu gọi chúng ta?

Tiếng gọi nào đang réo mời bạn?

Hỏi nữa, hỏi nữa đi ...

TIẾNG GỌI VÔ THANH CỦA PHÁP THÂN

          Người nói tiếng gì hỡi biển ?

          tiếng của câu hỏi muôn đời ...

          Người đáp tiếng gì hỡi trời ?

          tiếng của muôn đời thinh lặng ...

          Bốn câu thơ ngắn của đại thi hào Tagore ngẫu nhiên hé mở cho tất cả chúng ta những rung cảm nhẹ nhàng về Tiếng Gọi của một cảnh giới siêu nhiên, mang lâu nay bị những âm thanh dơ bẩn của thế gian làm nhiễu loạn, phân tán. Và chúng ta chỉ được cứu độ bởi tiếng gọi siêu nhiên ấy, như đức Phật đã dạy:

"... danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật chính là âm thanh tối thắng, đưa chúng sinh thâm nhập Như Lai tạng, Diệu chân như tánh. Vì thật tướng của danh hiệu là vô tướng, không đọa vào nhân duyên, không lạc vào tự nhiên, chẳng hòa hợp, chẳng phi hòa hợp. Luôn vắng lặng, chu biến khắp mười phương. Tùy theo tín tâm, công năng tu tập mà phát huy diệu dụng" (kinh niệm Phật Ba la mật).

          "... âm thanh của đức Như Lai thì không có hình trạng, chẳng thể thấy được, chẳng phải có phương sở, chẳng phải không có phương sở, chỉ tuy nơi duyên dục giải của chúng sanh mà phát ra. Âm thanh của Phật thì chỉ có một vị giải thoát, tùy theo tâm sai khác của chúng sanh nên có vô lượng sai khác ...!" (kinh Hoa Nghiêm).

          Như vậy, danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật là tiếng gọi của chân lý tối thượng, không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, văn tự thông dụng được, mà chỉ cảm nhận bằng Niềm Tin.

          Kinh Niệm Phật Ba-la-mật ghi lại lời đức Thích Ca dạy như sau :

          "... nay Ta dùng cặp mắt toàn giác để quán sát cái Tâm hiện tiền của chúng sinh, thì thấy rõ bản chất của cái Tâm ấy gọi là Tâm Thể. Tâm thể ấy vốn không có hình dáng, tướng mạo, không có sắc chất, không dài không ngắn, không quá khứ, không hiện tại vị lai. Không dữ không lành, không sinh không diệt, cũng chẳng phải phi sinh diệt. Tâm Thể ấy luôn luôn xa rời tất cả luận giải của thế gian".

          Như vậy, chúng ta không thể nào nhận biết hoặc mô tả về một cái gọi là Tâm. Bởi Tâm không có thuộc tính nhất định, không có ý nghĩa nhất định, nên dẫu chúng ta nói gì đi nữa, cũng chỉ là nỗ lực diễn tả một thứ  mà mình chưa hề bắt gặp, sờ mó, đo đạc. Nhưng, qua cuộc sống và ngôn ngữ cụ thể hàng ngày, chúng ta có thể nắm được vài dấu vết về Tâm, vài dữ liệu về Tâm. Nghĩa là có thể tìm thấy những hành tướng của Tâm biểu lộ cụ thể qua một cái tạm gọi là năng lực tâm.

          Năng lực của Tâm thì thường có tác dụng của một Tiếng Gọi. Tiếng Gọi là ý niệm, tư tưởng, hoặc tín hiệu, làn sóng, có người gọi chúng là Mầm Tưởng, hay Chủng Tử gì cũng được. Từ đó, phát sinh cảnh giới, hoặc y báo, chỗ thọ dụng của Tâm. Ngược lại cũng thế, cảnh giới tạo ra hình ảnh, tư tưởng, ý niệm, tín hiệu, làn sóng, từ đó phát sinh Tiếng Gọi, và Tiếng Gọi tạo ra Tâm.

          Tóm lại, tiếng gọi tức là tư tưởng, tức là cảnh giới, chỗ biểu hiện của Tâm.

          Do đó, chúng ta cứ xem xét bản thân, hàng ngày sống theo âm thanh nào, tiếng gọi nào thì đương nhiên tự biết Tâm ta như thế nào, và ta đang sống trong cảnh giới nào, tương lai sẽ đi về đâu. Chẳng cần chạy vạy hỏi han mấy ông thầy bói, hoặc mấy tà sư. Chỉ cần biết cảm nhận rằng, âm thanh nào đang kêu gọi chúng ta, thì tức khắc chúng ta tự biết Ta là ai, Ta là gì và đang ở đâu.

          Nếu Tâm lúc nào cũng rung cảm theo tiếng rống uy hùng của Sư Tử Chúa tràn trề Phật lực, mang tính chất đại bi đại trí, giải thoát viên mãn, vô lượng quang, vô lượng thọ, thì đương nhiên Tâm đang ở trong cảnh giới thù diệu trang nghiêm của chư Phật.

          Nếu Tâm thường xuyên theo dõi không rời tiếng gọi thanh tịnh vi mật của Thiền định ba la mật âm, hoặc Bát nhã ba la mật âm, hoặc tiếng gọi Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn của Quán Thế Âm thì chắc chắn Tâm đang sum vầy trong cảnh giới an lạc, vô úy của Bồ-tát, tự nhiên xa lìa tất cả sợ hãi, điên đảo tưởng, vọng nghiệp.

          Nếu Tâm ta khuynh hướng về Công Bằng, Bác Ái, Vị Tha và suốt đời hy sinh cho những cứu cánh ấy … thì ta đã và đang đoàn viên trong cảnh sống của con người

          Khỏi phải dài dòng, chúng ta cũng thừa hiểu rằng: tất cả tiếng gọi của thế gian đều dẫn đến chỗ trói buộc, khổ não và chìm trôi sinh tử không dứt. Vì bản chất của thế gian là vô minh do đó tiếng gọi của thế gian là tiếng gọi hoàn toàn vô minh. Chỉ có tiếng gọi của thánh nhân là mang nhiều đặc chất minh triết, hạnh phúc, bẻ gãy xiềng xích ngũ dục, là khô cạn biển khổ vô minh. Nhưng duy chỉ có tiếng gọi của Phật là bậc nhất, là rốt ráo, là giải thoát tròn đầy, khắp đến tất cả, vang vọng mười phương pháp giới, không bị chướng ngại, không bị biến đổi, sinh diệt. Vì sao?

          Vì tiếng gọi của Phật chính là danh hiệu Phật. Danh hiệu Phật chính là Đức Phật, với đầy đủ vô lượng vô biên đức tướng và năng lực Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác. Đây là lý do mà các Bồ-tát trong pháp hội Hoa Nghiêm đều tuyên bố:

          "Thà chấp nhận ở mãi trong các nẻo khổ

          Mà được luôn luôn nghe danh hiệu Phật

          Chứ không hề mong sinh ở nẻo lành

          Mà một thoáng không nghe hồng danh Phật "

         

Thà thác sinh trong các địa ngục dữ dội

          Mỗi ngục trải qua vô số kiếp

          Con thề không bao giờ lìa danh hiệu Phật

          Mà mong cầu ra khỏi cảnh khổ ...."

          Và tại sao chư Bồ-tát cứ mong ở mãi trong các đường dữ mà được nghe danh hiệu Phật? Kinh Hoa Nghiêm nói:

          "...vì sẽ được gặp và thấy Như Lai

          sẽ được tăng trưởng đại trí tuệ

          nếu được thấy Phật, đấng Thế tôn

          con sẽ dứt trừ hết thảy đau khổ

          con có thể nhập vào cảnh giới

          đại trí tuệ của chư Như Lai ..."

          Đó là chư vị đại Bồ-tát mà còn khao khát lắng nghe tiếng gọi của Phật, bởi duy chỉ phương thức ấy mới có thể "nuôi lớn tất cả phước báu vô tận, thành tựu viên mãn đạo bồ đề". Riêng chúng ta thì sao ?

Kinh Hoa Nghiêm nói tiếp :

".... Nếu có những chúng sanh

          chưa phát tâm bồ đề

          được nghe danh hiệu Phật

          quyết định thành chánh giác

 

          Như Lai, đấng Tự Tại

          vô lượng kiếp khó gặp

          nếu sanh một niệm tin

          mau chứng đạo vô thượng ..."

          Nhưng, làm thế nào để được “thường xuyên nghe Danh Hiệu Phật?"làm thế nào để mãi mãi “tiếp nhận Tiếng Gọi của Như Lai?

          Trên hành tinh nhỏ bé này, hàng ngày biết bao đài phát thanh, đài T.V, đài phát sóng liên tục đổ vào không gian biết bao tín hiệu, làn sóng, kể không hết.

Chưa kể vô số đài phát thanh tuôn ra từ cửa miệng những người xung quanh, thì số lượng những tiếng gọi lửng lơ khắp trái đất đang tác động đến cuộc sống khổ lụy của chúng ta, quả là khó tính đếm nổi. Lại còn những tiếng gọi từ các thiên thể ngoài trái đất, những tiếng gọi từ nghìn muôn kiếp xa xưa.

          Trong cuộc sống, ta phát ra làn sóng nào, thì sẽ nhận làn sóng ấy. Ta gởi tín hiệu nào thì tiếp thu tín hiệu ấy. Đó là định luật Phản Phục.

          Trong vũ trụ, loại âm thành nào được phát ra, chỉ cảm ứng với loại âm thanh ấy. Đó là định luật Cọng Hưởng.

          Trong pháp giới, loại tiếng gọi nào được thốt lên, thì chỉ mời mọc, hấp dẫn loại tiếng gọi ấy. Đó là định luật Đồng Khởi.

          Nói cách khác nghiêm túc hơn, dù chấp nhận hoặc không muốn chấp nhận, thì sự thực vẫn là sự thực : Tâm gọi Tâm, ý niệm thì chiêu cảm ý niệm. Tư tưởng thì ứng hợp với Tư tưởng v.v... Do đó, nếu chúng ta muốn bước khỏi cảnh giới khổ lụy, vô nghĩa, trói buộc của cuộc sống, thì chúng ta phải biết lắng nghe Tiếng Gọi từ cảnh giới chư Phật. Nghĩa là : chúng ta phải thốt lên tiếng gọi của Phật, hoặc hát lên khúc tuyệt vời bằng những âm thanh thiêng liêng chứa đựng hoàn toàn đức tướng Như Lai, tràn trề ánh sáng rực rỡ của đạo lý giải thoát - thì Phật sẽ xuất hiện lập tức, và kêu gọi chúng ta bằng âm thanh tối thắng, viên mãn của Ngài.

          Chính vì vậy mà thi sĩ huyền bí Kahlil Gibran trong tác phẩm The Prophet đã nói:

Đầng Chí Tôn chỉ lắng nghe tiếng nói của các ngươi, khi chính Ngài cất tiếng nói ấy qua bờ môi các ngươi. (God listens not to your words save when he himself utters them through your lips.)                          Hiểu được như thế rồi, chúng ta sẽ không còn ngớ ngẩn đặt ra câu hỏi âm thanh nào đang kêu gọi mình. Mà chúng ta sẽ tự mỉm cười vỡ lẽ rằng: chúng ta đang kêu gọi cái gì? và với âm thanh nào?                  

Hoặc gọn nhẹ hơn, chúng ta sẽ tự  hỏi: Chúng ta đang réo gọi bằng loại thanh âm nào? Hoặc ngắn gọn hơn, vắn tắt hơn nữa: Ta Đang Thốt Tiếng Gọi Nào?

Xin lập lại lần nữa cho chắc chắn, chính xác:

          Ta Đang Thốt Tiếng Gọi Nào ?

Cho tới khi nào đó, có lẽ chúng ta hốt nhiên biến thành Tiếng Gọi, và Tiếng Gọi biến thành chúng ta. Tất cả thế gian này bỗng dưng chỉ còn Tiếng Gọi giục giã Tiếng Gọi, Tiếng Gọi nối theo Tiếng Gọi. Không còn gì cả. Không còn gì hết.

Chẳng cần ai cảm nhận. Chẳng cần ai hiểu. Chẳng cần ai hay. Ngay cả cái "ai đó" cũng chẳng còn hiện hữu. Bí mật?

          NGUYỄN XUÂN CHIẾN

                                                                                               

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2015(Xem: 8332)
Hôm nay là ngày rằm, từ sáng sớm bà chủ đã ngỏ lời: “Hây, tối nay kính mời khách thưởng trà ngắm trăng với chúng tôi trong vườn nhà”. Khi ráng chiều vừa tắt, bà chủ đưa cho khách bộ Yukata (Kymono mặc mùa hè), một đôi tất trắng, một đôi guốc xỏ ngón và một cái hoa vải màu hồng nâu. Thấy khách lúng túng, hiểu ý, bà chủ ân cần hướng dẫn khách sử dụng từng loại. Bà chủ chia sẻ: “Mặc Yukata khó nhất và đẹp nhất là cái đai quanh thắt lưng”. Miệng nói, tay làm, bà giúp khách hoàn thiện cái đai này. Bà lại hồn hậu: “Búi tóc kiểu Nhật cũng không là việc dễ”, rồi đôi tay bà chủ thoăn thoắt, chỉ mươi phút mái tóc của khách đã được búi cao lại còn giắt thêm cái hoa vải màu hồng nâu sau gáy. Khách nghĩ, mình đã tươm tất lắm rồi, thì nghe bà chủ nhắc khéo: “Mặc Yukata đôi chân phụ nữ phải được bọc trong đôi vớ trắng và bước đi với đôi guốc xỏ ngón”. Nghe lời, khách mang vớ, mang guốc rồi thử bước đi; xong, khách thầm nhủ “mang đôi guốc này mà không té là điều kỳ diệuJ”.
19/09/2015(Xem: 9288)
Đối với người Phật tử, dù ở bất cứ phương trời nào, không phải chỉ mùa Vu Lan mới là thời điểm để người con Phật thể hiện lòng báo đức tri ân. Ân Chư Phật, ân Thầy Tổ, ân cha mẹ giáo dường, ân đàn na thí thí, ân xã hội, ân chúng sanh …. mà ân kia, đức đó phải luôn phát nguyện bằng thiện tâm: “Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài” Theo tinh thần trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm thì muôn người, muôn loài đều thầm lặng vì nhau mà sinh diệt. Cái này vì cái kia mà hiện hữu, cái này ra đi để cái kia tồn tại. Như lá rụng mà thực chẳng diệt, vì lá lại thành đất nuôi cây. Như mây tụ lại mà thực chẳng tan, vì mây chỉ chuyển hóa thành mưa tươi mát, tắm đẫm cỏ nội hoa ngàn ….
18/09/2015(Xem: 8880)
Được sự đồng ý của tác giả, Cư sĩ Diệu Nhung, Cư sĩ Tâm Thành và các Cư sĩ khác hùn phước ấn tống và gửi tặng sách GIA TÀI CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC (Thực tập Kham nhẫn) phiên bản tiếng Việt cho các đối tượng sau đây: 1. Đọc giả người Việt đang sinh sống và làm việc trong khu vực VIỆT NAM và CHÂU Á. 2. Các tu sĩ Phật giáo người Việt không phân biệt tông phái. 3. Các cư sĩ người Việt đang nghiên cứu và thực tập Phật giá
13/09/2015(Xem: 7789)
Giáo dục là gì? Hiện nay khó mà định nghĩa dứt khoát; có rất nhiều định nghĩa khác nhau, ví dụ: Như trong cuốn "The Educator’s encyclopedia" của ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và M.M. Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ Phương Đông đến thái độ Phương Tây và trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: "Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người". (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản trẻ năm 1971).
12/09/2015(Xem: 7276)
Những ngôi Chùa nổi tiếng ở VN
12/09/2015(Xem: 16805)
Nếu có người nào đó bảo rằng: “Tại sao Thầy viết nhiều và không chịu nghỉ ngơi, hãy để dồn viết một tác phẩm có giá trị vẫn hay hơn là những bài tạp ghi như vậy“ thì tôi sẽ trả lời rằng: “Nếu viết được thì cứ viết, chứ chờ viết hay mới viết thì biết bao giờ mới viết được một bài. Có nhiều người chờ cả đời không viết, đến khi muốn viết thì không còn sức khỏe nữa“. Quả cuộc đời nầy nó có nhiều cái khó như thế, mà chúng ta thì không tự làm chủ thời gian cũng như sức khỏe của mình được. Do vậy tôi chủ trương rằng: “Cái gì làm được trong ngày hôm nay thì hãy nên làm, chứ chờ đến ngày mai thì nhiều khi ngày mai ấy không còn ở lại với mình nữa. Dầu ta có già, có sống lâu bao nhiêu năm trên thế gian nầy đi nữa, rồi một ngày nào đó chúng ta cũng phải ra đi, mà thời gian thì chẳng thương tiếc gì ta, dầu ta có cố níu kéo nó lại. Ngay cả những người thân trong gia đình, mình cứ ngỡ rằng họ luôn ở gần mình và họ thuộc về một phần của cuộc sống mình, nhưng điều ấy ta đã lầm. Cuối cùng rồi chẳng có
12/09/2015(Xem: 9233)
Phật Giáo Việt Nam và vấn đề bảo vệ mội trường
10/09/2015(Xem: 10447)
Mẹ tôi năm nay 83 tuổi, mẹ đã bị bệnh mất trí nhớ (dementia) trong vòng năm năm nay. Bốn năm trước đây, khi tôi gặp mẹ, cánh cửa của căn chung cư mẹ tôi ở đã mở toang, và mẹ tôi đã đi lang thang ra ngoài đường. Bệnh mất trí nhớ của mẹ tôi phát ra rất nhanh, nhanh đến nỗi mẹ đã không còn nhớ đến ai cả.
06/09/2015(Xem: 9343)
Các nhà sư thuyết giảng cho người thế tục là chuyện bình thường, thế nhưng nếu một nhà sư đứng ra thuyết giảng cho các nhà sư khác thì quả là một chuyện hiếm hoi khi gặp. Dưới đây là một bài nói chuyện của nhà sư Thanissaro Bhikkhu với các bạn đồng tu trong một ngôi chùa mà nhà sư này có ý gọi chung các ngôi chùa là "bệnh viện của Đức Phật". Bài nói chuyện được trích dẫn từ một tập sách mang tựa "Thiền định 1: Bốn mươi bài thuyết giảng Đạo Pháp" (Meditation 1: Forty Dhamma Talks, Access to Insight, 2003), gom góp các bài thuyết giảng của ông. Thanissaro Bhikkhu là một nhà sư người Mỹ tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật Giáo Theravada, một nhà sư thật đáng kính, uyên bác và tích cực, vô cùng xứng đáng để hàn huyên với các nhà sư và thuyết giảng cho tất cả chúng ta nghe.
03/09/2015(Xem: 23856)
Nói đến giáo lý Phật giáo là nói đến chữ Tâm. Ngay sau khi thành đạo, đầu tiên đức Phật thuyết về tâm (kinh Hoa Nghiêm), rồi đến khi sắp nhập Niết-bàn, Phật cũng đã dặn dò hàng đệ tử phải chế ngự tâm (kinh Đại Bát Niết Bàn, kinh Di Giáo). Phật pháp lấy tâm làm gốc. Có thể nói mà không sợ lầm lẫn, tất cả những điều đức Thế Tôn đã dạy, được hai phái Tiểu thừa, Đại thừa kết tập lại trong Tam tạng, đều nói đến chữ “tâm”. Đệ tử của Phật, thực hành theo những gì đức Phật đã giáo hóa, cho dù tu học theo tông phái, pháp môn nào, cũng không ngoài bốn chữ: “tu tâm dưỡng tánh”. Vậy tìm hiểu chữ tâm cho thấu đáo, khảo sát, thẩm cứu, thường xuyên quán chiếu về tâm, trộm nghĩ đó cũng là điều lý thú và hết sức cần thiết đối với hành giả, đấy chứ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]