Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đối mặt với khổ đau.

10/08/201621:37(Xem: 10074)
Đối mặt với khổ đau.

 

Đối mặt với khổ đau.
dau-kho

Khổ đau là trạng thái hoặc tâm mình buồn rầu, tuyệt vọng hoặc thân mình bệnh tật không khỏe. Từ khổ tiếng Anh dịch là suffering hoặc là illbeing. Suffering là khổ, còn illbeing là không khỏe, là bị ốm. Trái với khổ thì có từ happy, là hạnh phúc. Với nhà Phật thì hay dùng từ an lạc hay hơn hạnh phúc. Từ tiếng Hoa, khổ là đắng 苦, trái ngược với khổ là cam 甘là ngọt . Câu “ đồng cam cộng khổ”, chia bùi sẻ ngọt là xuất phát từ khổ và từ cam của tiếng Hoa.

Trong cuộc sống, va chạm hàng ngày là điều không tránh khỏi. Nếu mình thương yêu đích thực thì mình lắng nghe chia sẻ cho nhau, góp ý cho nhau để tiến bộ. Phật gọi đó là  hành động chánh kiến, chánh tư duy và chánh ngữ. Từ Chánh 正  nghĩa của tiếng Hoa là thẳng, không có cong, không có quẹo. Chánh Kiến là  nhìn đúng sự việc. Chánh tư duy là suy nghĩ đúng đắn. Chánh ngữ là nói lời đúng, lời nói nhẹ nhàng, góp ý chân tính. Nếu người thân mình làm mình đau khổ, làm những điều mình thấy sai mình phải suy nghĩ lựa lời góp ý, khuyên bảo. Nếu mình mặc kệ, ôm cái giận mà không giải bày, không tâm sự thì không phải.

Mình không nên hành xử như vậy. Bởi giáo lý nhà Phật dạy, yêu thương đích thực không có chỗ cho tự ái. Nếu mình đau khổ, mình phải chia sẻ, góp ý với nhau. Đừng ôm giữ, tự ái trong người.

Có một câu chuyện thời xưa, là bài học cho để chúng ta tránh những hành xử sai lầm khi gặp phải khổ đau.

Một người đàn ông phải đi lính vì có chiến tranh, để lại người vợ đang mang thai ở nhà. Hai năm sau, chiến tranh kết thúc. Nghe tin người chồng được trở về, người vợ dẫn con trai ra ngõ đón chồng. Vợ chồng đã khóc vui mừng vì phút giây đoàn tụ.

Đến nhà, người chồng sai vợ đi chợ, sắm lễ vật cúng tổ tiên. Lúc người vợ đi chợ, ở nhà người cha bắt đầu trò chuyện và tập cho người con gọi mình bằng cha. Nhưng cậu bé từ chối: "Chú ơi, chú không phải là ba của con. Ba của con là một người khác. Ba con thường đến thăm mẹ con mỗi đêm và nói chuyện với mẹ con. Mẹ con thường khóc mỗi khi nói chuyện với ba con. Mỗi lần mẹ con ngồi xuống là ba con ngồi xuống. Mỗi lần mẹ con nằm, ba con cũng nằm xuống. "

Nghe con nói, người cha buồn chán. Anh ta cảm thấy bị tổn thương. Khi người vợ đi chợ về, người chồng không nhìn mặt và trò chuyện với vợ mình nữa. Người chồng xem như vợ mình không có trong nhà. Người vợ cảm thẩy bị coi thường. Khi lễ vật được đặt trên bàn thờ, người chồng thắp hương, lễ lạy và khấn vái tổ tiên. Thậm chí người chồng không cho người vợ lễ lạy trước bàn thờ như trước kia. Bởi trong tâm trí của người chồng, vợ mình đã không xứng đáng. Bái lạy tổ tiên xong, người chồng không ở nhà ăn cơm mà đi ra quán uống rượu đến khuya. Người chồng cố gắng quên đi đau khổ bằng cách uống rượu. Nhiều ngày liên tiếp, người vợ không chịu được đau khổ, cô ta đã nhảy sông tự vẫn.

Vợ chết, người chồng thôi không uống rượu nữa và trở về nhà vì phải chăm sóc con. Đêm đó, lúc trời tối, người chồng thắp đèn, đột nhiên, người con kêu lên: "Chú ơi, ba con về rồi đó!" Cậu bé chỉ cái bóng của cha mình đang in trên tường. "Chú biết không, ba con đêm nào cũng về. Mẹ con nói chuyện với ba con và mẹ con khóc dữ lắm, mỗi khi mẹ con ngồi xuống, thì ba con cũng ngồi xuống "

Thực ra, đứa bé nhìn bóng của mẹ nó hằng đêm tưởng là cha của nó. Bởi mẹ nó hằng đêm, một mình trong ngôi nhà đã nói chuyện với cái bóng của mình để an ủi nỗi nhớ chồng xa cách : " Anh ơi, Anh thì ở làm sao em có thể một mình nuôi con như thế này hoài được? . . . anh phải mau về nhà sớm, với mẹ con em. ". Rồi người vợ khóc than, đến khi mệt thì nằm xuống. Mỗi khi người mẹ nằm xuống, bóng trên tường cũng nằm xuống.

Bây giờ người chồng hiểu mình đã sai. Nhưng sai lầm đó đã phải trả giá quá đắt. Chỉ vì ngộ nhận mà người chồng đã làm chết người vợ trẻ, con của anh ta phải mồ côi mẹ.

Nếu người chồng hỏi vợ mình: " Người hay đến với em mỗi đêm là ai? Đứa bé này có phải con của anh và em không? Em hãy giải thích cho anh rõ, bởi anh rất đau khổ .”. Nếu người chồng hỏi vợ như vậy, vợ anh ta sẽ có cơ hội để giải thích, và mọi tiêu cực có thể tránh được.

Đành rằng, lỗi không chỉ của người chồng, mà người vợ cũng có lỗi trong đó. Cô ấy có thể đến bên chồng mình và hỏi " Anh ơi, anh buồn bực điều gì mà không thèm nhìn mặt em, không thèm nói chuyện với em? Em đã làm gì sai? Em rất đau khổ nếu anh cứ như vậy. Anh phải trả lời cho em nghe. ".

Bởi cả người chồng và người vợ không vượt qua tự ái để giải bày những nghi ngờ của nhau, kết cục là đau buồn.

Câu chuyện cho chúng ta một bài học. Mỗi khi mình nghĩ rằng, người mình thương đang làm mình đau khổ, thì tốt nhất mình phải chia sẻ nỗi khổ đau với người đó. Đừng giữ kín nỗi đau trong người làm gì. Mình hãy nhớ rằng yêu thương đích thực không có chỗ cho tự ái./.

4/8/2016
Hoàng Phước Đại – Đồng An
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2010(Xem: 5662)
Sự ảnh hưởng sâu rộng của Đức Phật và Tăng đoàn đã làm cho ngoại đạo lo sợ quần chúng sẽ theo Phật và xa rời họ. Do đó, một nhóm ngoại đạo đã suy nghĩ, toan tính âm mưu triệt hạ uy danh Đức Phật. Sau cùng, một nữ đệ tử cuồng tín của họ tên là Tôn Đà Lợi đã chấp nhận hy sinh bản thân cho mục đích đen tối đó.
22/10/2010(Xem: 4637)
“Nguyện lực” hay “quyết định lực” là 01 trong 10 ba-la-mật (pāramī) (1) theo kinh điển truyền thống. Nó là năng lực của ý chí tiếp sức cho tư tác (cetanā) hoàn thành tâm nguyện của người học Phật và tu Phật. Chư Chánh Đẳng Giác, Độc Giác, Thinh Văn Giác đều có nguyện lực và đều có ba giai đoạn: Nguyện trong tâm (ý), nguyện thành lời (khẩu) và nguyện bằng hành động (thân) ba-la-mật. Như đức Phật Sakyā Gotama đã phát nguyện ở trong tâm suốt 7 A-tăng-kỳ, nguyện thành lời suốt 9 A-tăng-kỳ, và nguyện bằng hành động ba-la-mật suốt 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp(2). Như vậy là đức Phật Sakyā Gotama phải thực hành ba-la-mật trải qua 24 vị Phật tổ, kể từ Phật Dīpaṅkāra (Nhiên Đăng) cho đến Phật Kassapa (Ca Diếp).
22/10/2010(Xem: 7661)
Từ thời Đức Thế Tôn còn tại thế, đạo Phật được truyền bá một cách sâu rộng khắp trên lưu vực sông Hằng cũng như qua các thị trấn và những quốc gia thời bấy giờ của xã hội Ấn Độ, quê hương của Phật. Phật pháp được tuyên thuyết bởi Đức Phật, cũng như các hàng Thánh chúng đến từng nhà, từng người, từng cộng đồng trong xã hội. Phật pháp đã tạo sự bình an cho con người, đã xây dựng một nếp sống đạo đức, lễ nghi hướng thượng cho tất cả.
21/10/2010(Xem: 5750)
Ngày 8 tháng 12 năm 2003 tại Chùa Than Hsiang, Peang, Malaysia trong Khóa Nhập thất Trì tụng 100 Triệu Thần chú Sáu-Âm 1. Là Phật tử, chúng ta thực hành để làm lợi lạc cho bản thân và những người khác. Vì thế, chúng ta thực hành trì tụng thần chú Sáu-Âm (Om Mani Padme Hung). Tuy nhiên, khi chúng ta ăn thịt – thịt gà, thịt heo, cá hay trứng trong đời sống hàng ngày của ta, chúng ta đang tạo vô số nghiệp xấu.
21/10/2010(Xem: 6501)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
21/10/2010(Xem: 5500)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
21/10/2010(Xem: 7710)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam và hiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo được các vua chúa ủng hộ, mà cũng có lúc bị một số người bài xích. Nhưng chung cục, Phật giáo vẫn chịu đựng được những thử thách ấy để mà tồn tại. Như thế, chứng tỏ Phật giáo phải tiềm tàng nhiều khả tính, mà một trong những khả tính có sức cảm hóa con người mạnh mẽ nhất, đó là đức tính từ bi bao dung của đạo Phật.
21/10/2010(Xem: 5846)
Khi vừa mới một tuổi thì Dagpo Rimpoché đã được Đức Đạt-Lai Lạt-Mathứ XIII xác nhận là vị hóa thân (toulku) của Ngài Mã-nhĩ-ba (Marpa, 1012-1097)một vị Đại sư của Tây tạng và là thầy của Đại sư Mật-lặc Nhật-ba (Milarepa, 1052-1135).Dagpo Rimpoché sinh năm 1932, vào chùa từ lúc sáu tuổi, học tại các tu viện đạihọc danh tiếng nhất ở Tây tạng, tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Ngài rời Tây Tạngvượt sang Ấn vào năm 1959 và sau đó thì lưu trú tại Pháp từ năm 1960. Hiện nayDagpo Rimpoché là một gương mặt lớn của Phật giáo Tây tạng tại Âu châu.
20/10/2010(Xem: 4043)
Những điều nhỏ nhặt đang ghi nhớ
20/10/2010(Xem: 4812)
Brisbane, Australia - 11/06/2015, Ủy ban Công giáo Roman tổ chức buổi Cầu nguyện hòa bình thế giới tại Thành phố Brisbane, Queensland, Australia. Đáp lời mời đến tham dự với sự hiện diện của đức Đức Đạt Lai Lạt Ma, cùng chư tôn giáo phẩm Tăng già Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Nguyên thủy, Ấn Độ giáo, Do Thái giáo, Bahai . . .Phía Chính quyền địa phương có sự hiện diện của Ông Paul de Jersey, Thống đốc bang Queensland, Bà Shannon Fentiman, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đa văn hóa, Ông Ian Stewart, Ủy viên cảnh sát Queensland, Australia và hơn 800 đại biểu các lĩnh vực xã hội tham dự.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567