Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn Nguyện Lớn Của Đại Thừa

18/05/201621:28(Xem: 7165)
Bốn Nguyện Lớn Của Đại Thừa
BỐN NGUYỆN LỚN CỦA ĐẠI THỪA
bai-phap-tu-dieu-de 
Thích Đức Trí

 

Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế. Danh xưng thường đọc tụng là Tứ Hoằng Thệ Nguyện; “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.  Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.[1]”.  Bốn nguyện này, trong các kinh văn, như:-Đạo Hạnh Bát Nhã Kinh, quyển 8, phẩm Thủ Hành; Pháp Hoa Kinh quyển 3, Phẩm Dược Thảo Dụ; An Lạc Kinh, quyển thượng; Lục Tổ Đàn Kinh; Trong giáo lý Mật Tông, Thọ Bồ Đề Tâm Giới Nghĩa; Trong giáo lý Thiên Thai Tông, Ma Ha Chỉ Quán”;[2] thì từ ngữ và cách sắp xếp thứ tự lời nguyện có vài điểm  khác nhau, nhưng cùng ý nghĩa căn bản. Bốn lời nguyện vĩ đại đó là con thuyền lớn chuyên chở Phật pháp đi vào cuộc đời, như là thực hành di huấn của Đức Thế Tôn trước khi Ngài nhập Niết Bàn.

      Tất cả pháp môn tu học trong Phật giáo Đại thừa và Nguyên thủy phải y cứ  vào giáo lý cơ bản Phật dạy, như Tứ Đế, Duyên Khởi, Tam Pháp Ấn và nội dung của ba mươi bảy phẩm trợ đạo nói chung. Đó là tri thức thiết yếu khởi đầu tu tập cho đến giác ngộ. Phật giáo thiết lập phương tiện truyền bá Phật pháp trong các thời đại vào mọi đối tượng con người. Phật pháp trong quá trình đi sâu vào đời sống quần chúng, phải gọi là bất định pháp. Vì nó được hiểu rằng, mọi pháp môn biểu hiện đều là  phương tiện. Phương tiện thì có sai biệt, mục đích chỉ là thoát ly sanh tử luân hồi. Toàn bộ Phật pháp không ngoài giáo lý Tứ Diệu Đế. Tất cả pháp môn tu không ngoài giáo lý Tứ Đế mà triển khai, mới thực là Phật pháp. “Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loại động vật đều thâu nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này được xem là lớn nhất trong tất cả dấu chân về phương diện to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các Thiện pháp đều tập trung trong Bốn Thánh đế. Thế nào là trong Bốn Thánh đế? Trong Khổ Thánh đế, trong Khổ tập Thánh đế, trong Khổ diệt Thánh đế, trong Khổ diệt đạo Thánh đế[3]” Tứ thánh đế, bốn chân lý chắc thực, thuyết minh hai phương diện nhân quả thế gian và xuất thế gian. Vai trò của giáo lý này vô cùng quan trọng, Đức Phật nhấn mạnh như sau: “Hỡi này các Tỳ Khưu , ngày nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng Sa-Môn, Bà-La-Môn, Trời và Người rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anuttaram samma sambodhim) Đến khi, hỡi này các Tỳ Khưu, tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ thì, chỉ đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng Sa-Môn, Bà-La-Môn, Trời và Người rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.[4] Kinh Chuyển Pháp Luân triển khai giáo lý Tứ Đế với ba sắc thái và mười hai phương thức trong ý nghĩa Thị chuyển, Khuyến chuyển và chứng chuyển.Truyền bá Phật pháp là giúp người  thực hành bốn chân lý ấy. Đối trước hoàn cảnh, người xuất gia hay tại gia tu hành đều hướng đến chỗ cứu cánh thành Phật. Lộ trình ấy, thông qua viên mãn Bồ tát đạo. Do vậy, tu học cần có chí nguyện cao thượng, bền chắc và lâu dài Bốn nguyện ấy dựa trên nguyên tắc giáo lý Tứ Thánh Đế. Đó là ứng dụng tinh thần chuyển pháp luân của Phật qua sự thực nghiệm giáo Lý Tứ Diệu Đế.

      Khổ Thánh Đế, chúng sanh khổ, nên phát nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” Đó là lời nguyện vĩ đại thứ nhất.

      Tập Thánh Đế, nguyên nhân khổ đau là do phiền não và tham ái; nên phát nguyện: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Đó là lời nguyện vĩ đại thứ hai.

      Đạo Thánh Đế, là nội dung giáo lý đức Phật ra đời giáo hóa chúng sanh; nên phát nguyện: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Đó là lời nguyện vĩ đại thứ ba.

       Diệt Thánh Đế, là trạng thái Niết bàn giải thoát, Đức Phật chứng ngộ, là kết quả của sự tu đạo; nên phát nguyện: “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Đó là lời nguyện vĩ đại thứ tư.

      Nhận thức cuộc đời là khổ mà phát nguyện độ vô biên chúng sanh. Đứng về phương diện tu tâm mà luận, tức độ ý niệm chúng sanh trong tâm. Niệm chúng sanh tức niệm tham ái và chấp thủ đưa đến luân hồi sanh tử. Sanh tử là nội dung của khổ đau trong tam giới lục đạo. Người học đạo cần chuyển hóa tâm ấy thành tâm giải thoát. Đó là tinh thần tự lợi, còn tinh thần lợi tha là phát huy tinh thần giáo hóa chúng sanh. Nếu tự thân mình mong thoát khỏi sanh tử thì cũng mong tất cả chúng sanh thoát khỏi sanh tử. Nhưng muốn thực hiện tinh thần “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” cần tu tập từ bi và trí tuệ. Nếu bản thân chưa đủ đạo hạnh thì không thực hiện được mục đích cao quý đó. Như một người nhiệt tâm nhảy vào đầm nước sâu cứu người sắp chết đuối mà không biết bơi lội thì cuối cùng hai người đều chịu chết oan uổng. Trong giáo lý Đại thừa, nhấn mạnh tinh thần tự hành và hóa tha. Có nghĩa muốn giáo hóa tha nhân thì bản thân mình trước phải thực tiển tu hành. Nếu tự mình không tu hành mà khuyên người khác tu hành không có hiệu quả. Độ vô biên chúng sanh, là thành tựu vô biên phước đức và trí tuệ.

      Nguyên nhân của khổ đau chính là tham ái, cụ thể là tham, sân và si. Tham, sân và si là tính chất chung của tất cả mọi thứ phiền não ô nhiễm, nói rộng ra là tám vạn bốn ngàn trần lao phiền não. Muốn thoát khổ sinh tử phải tu Giới- Định- Tuệ, ba đặc trưng chung của giáo lý Bát Chánh Đạo. Nhận rõ bản chất phiền não và phát nguyện đoạn trừ và hướng dẫn người khác tu tập. Đại thừa cụ thể hóa phương pháp đoạn trừ phiền não qua giáo lý lục độ, đó là Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tin tấn, thiền định và trí tuệ. Thực hành sáu pháp ấy mới có khả năng đoạn vô tận phiền não. Bản chất tham ái luôn cám dỗ con người, ý thức sâu sắc tham ái càng nhiều, khổ đau càng  triền miên.  Lộ trình tu tập, đoạn trừ một phần phiền não thì sẽ chứng được một phần giải thoát. Phiền não là gánh nặng của kẻ lữ hành trên sa mạc, bỏ bớt gánh nặng thì kẻ lữ hành mới thong dong nhẹ bước.

      Tu đạo mới cắt đứt phiền não, tham ái để chứng đắc Niết bàn. Đại thừa thao thức con đường học đạo và độ sanh mới phát nguyện: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Pháp môn đây không chỉ giới hạn các phương pháp tu tập của các hệ phái Phật giáo.  Trong Phật giáo còn nhấn mạnh tầm quan trọng giáo nghĩa Ngũ Minh. Đó là thanh minh, Công xảo minh, y phương minh, nhân minh và nội minh. “Thanh minh, là khả năng thông thạo về ngôn ngữ, văn từ. Công xảo minh là khả năng thông thạo về nghề nghiệp, toán học, khoa học, văn chương, triết lý thuộc ngoại điển. Y phương minh là khả năng hiểu biết về y lý, thuốc men, trị bệnh. Nhân minh là khả năng thông thạo về chánh, tà, đúng, sai... là khả năng luận lý, lý giải. Nội minh là kiến thức thông rõ (gồm cả kinh nghiệm tu tập) ba tạng Kinh điển của Phật giáo.[5]”. Cho nên, lý tưởng tu học là luôn gắn cả sanh mạng với sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh. Người có tầm nhìn rộng lớn, dùng phương tiện khéo truyền bá Phật pháp, nên cần phải học nhiều, hiểu rộng; không nên chủ quan, xem pháp mình tu là quan trọng, pháp môn khác là thứ yếu.

      Tu tập Tứ đế là chứng đắc Niết bàn, giải thoát sanh tử. Phật là bậc đã chứng Niết bàn viên mãn, vì công hạnh tự giác và giác tha viên mãn. Theo Đại thừa, muốn chứng quả Phật phải tu Bồ tát đạo. Chính vì lý do đó mà phát nguyện: “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Nếu không có nguyện lực kiên cố, khi gặp chướng ngại sẽ bị thối tâm ban đầu. Thực chất Niết bàn vô tướng, siêu việt nhận thức, ngôn ngữ, khái niệm. Đó là thế giới chân thật hiện hữu khi tâm lìa bỏ phiền não, tham ái và chấp thủ. Niết bàn, hay Phật quả là nội dung tuệ giải thoát, trí tuệ ấy thấy được tính duyên khởi vạn vật. "Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi[6]

      Phật pháp bao hàm trong giáo lý Tứ Thánh Đế, vận hành giáo lý ấy vào thế gian mà thiết lập bốn đại nguyện, giúp đời thoát khổ. Đức Phật nhập diệt trên hai mươi lăm thế kỷ, chánh pháp của Phật được tồn tại đến ngày hôm nay là nhờ đệ tử Phật có tinh thần hoằng pháp. Nhận thức Giáo Lý Thánh Đế là một vấn đề, chứng ngộ mới là mục đích tu học. Phát bốn nguyện lớn là một vấn đề, thành tựu bốn nguyện lớn ấy là chứng ngộ viên mãn Tứ Thánh Đế. Đây là tinh hoa của giáo lý Đại thừa, thông qua phương tiện tu tập và độ sanh mà không rời xa tâm yếu Phật Pháp./.

 

 



[1] Nội dung này xuất từ Lục Tổ Đàn Kinh, trong thiền môn Việt Nam và Tông Thiên Thai Nhật Bản thường tụng.

[2] Thích Tinh Vân-Từ Tứ Thánh Đế đến Tứ Hoằng Thệ Nguyện, Phổ Môn Học Báo Kì 2, tháng 3 /2001.

[3]HT.Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ tập1, Đại Kinh Dụ Dấu Chân Voi.

[4]HT. Thích Minh Châu dịch, Tương Ưng Bộ, V-420. Kinh Chuyển Pháp Luân.

 

[5]Thích Chơn Thiện, Phật Học Khái Luận, Chương 3- Tăng Bảo, tiết IV-Ngũ Minh, VNCPHVN tái bản 1997

[6]HT. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ tập I , Đại Kinh Dụ Dấu Chân Voi (Mahahatthipadopamasuttam)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/09/2017(Xem: 9095)
Hai phật tử tại Anh Quốc bị phạt 15,000 bảng Anh vì tội phóng sinhVietbf.com - Thời gian gần đây, toà án mới tuyên mức phạt 15,000 bảng (gần 500 triệu đồng) cho hai người liên quan là Zhixiong Li (33 tuổi) và Ni Li (30 tuổi) do phá hoại môi trường vì đem tôm hùm và cua ra biển phóng sinh. Những buổi lễ phóng sinh luôn khiến người ta cảm động với câu chuyện hàng trăm, hàng nghìn loài động vật được trả tự do, thả về với môi trường sống. Tuy nhiên cách đây 2 năm, hai phật tử phóng sinh một lượng lớn tôm hùm trị giá 5,000 bảng (hơn 150 triệu đồng) xuống vùng biển Brighton, Anh đã bị phạt 15,000 bảng (gần 500 triệu) vì "tàn phá" môi trường.
23/09/2017(Xem: 7983)
Xuất gia gieo duyên báo hiếu là một truyền thống văn hóa đặc sắc của các nước Phật giáo Nam truyền và đã dần trở thành một phần không thể thiếu, được xem như nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi thanh niên trong một giai đoạn nào đó của đời mình.
15/09/2017(Xem: 10510)
Có thể nói trào lưu trong những năm gần đây về sự ra đời của nhiều quyển sách viết riêng cho người trẻ đã chiếm được lòng của đông đảo bạn đọc là những thế hệ 8X và 9X trong thị trường xuất bản sách tại Việt Nam.
15/09/2017(Xem: 7030)
Tôi, hơn mười năm trở lại, Nha Trang lớn dậy bề thế về mọi mặt, nhất là du lịch. Tôi là người ăn chay, được các chị tổ bếp lo cho những bữa cơm chay đầy đủ ngon miệng, tiếp lửa cho những trang viết mới toanh. Có lẽ đây là một duyên lành tôi nhận được. Tôi đã ở Nha Trang hơn bốn mươi năm trước, thường nghe câu ca dao của người dân:
15/09/2017(Xem: 12492)
Đôi Giòng Tâm Sự Mỗi bộ óc con người đều có một câu chuyện và sau đây là câu chuyện của bộ óc tôi… Hơn mười năm trước đây, tôi là giáo sư Đại học Y Khoa Harvard, chuyên nghiên cứu và giảng dạy cho sinh viên về bộ óc của con người. Nhưng vào ngày 10 tháng 12 năm 1996, tôi đã học được bài học về não bộ từ chính bộ óc của mình.
15/09/2017(Xem: 9016)
Ngày xưa tôi rất thích đi phóng sinh. Có khi cả nhóm đặt mua khá nhiều cá, tôm cua, ốc, chim,… để phóng sinh. Thật là hạnh phúc khi làm lễ phóng sinh và phóng sinh để cứu mạng các loài động vật đáng thương này.
14/09/2017(Xem: 8181)
Dưới đây là phần chuyển ngữ một quyển sách nhỏ của Phật giáo Đài Loan được phổ biến khá rộng rãi. Tác giả là Hòa thượng Hsing Yun (星雲/Tinh Vân), vị đại sư viện chủ ngôi chùa nổi tiếng Fo Guang Shan (佛光山/Phật Quang Sơn) tại Kaohsung (高雄/Cao Hùng) thành phố lớn thứ hai tại Đài Loan. Theo lời giới thiệu trong quyển sách này thì Hòa thượng Tinh Vân sinh năm 1927, thụ phong tỳ kheo năm 1941, là một nhà sư thuộc Thiền Tông, học phái Lâm Tế (Linji). Sau khi thụ phong, Ngài tham gia tích cực vào các chương trình ấn hành kinh sách, cộng tác với các tạp chí Phật giáo và đồng thời thành lập các tổ chức canh tân Phật giáo, chẳng hạn như mở các "Lớp học giảng dạy giáo lý Phật giáo ngày Chủ nhật" tạo cơ hội cho thành phần thanh thiếu niên Phật tử gặp gỡ nhau, hoặc tổ chức các buổi tụng niệm tập thể dành cho các Phật tử tại gia.
14/09/2017(Xem: 5779)
Hạnh là điều chúng ta phát nguyện làm, là đường lối chúng ta muốn thực hiện, là cách sống của chúng ta. Phúc là kết quả của những điều thiện lành mà ta đã thực hiện mang niềm vui đến cho người và cho mình. Sống hạnh phúc là sống một cách vui vẻ thoải mái, mọi thứ luôn được như ý của mình. Nhưng muốn được hạnh phúc thì trước hết chúng ta phải đạt được sự bình an. Bình an cả vật chất lẫn tinh thần. Đối với con người thì vật chất chính là cơ thể của chúng ta. Cha mẹ sinh ta ra với một thân thể đầy đủ và hằng ngày thân không bệnh hoạn đau đớn thì đó là phước báu của chúng ta có được thân thể tốt đẹp khoẻ mạnh. Còn tinh thần là tâm. Tâm không bị ô nhiễm bởi những ham muốn xấu xa, không có ý nghĩ tham lam, hận thù, ghen ghét, hại người, tâm không phiền não, âu lo thì đó mới thật là tâm bình an.
09/09/2017(Xem: 9516)
Trong cuộc sống này, có lẽ thứ đem đến cho chúng ta nhiều hạnh phúc nhất cũng như nhiều đau khổ nhất là gia đình. Gia đình bình yên thì chúng ta sẽ có đủ sức mạnh vượt qua mọi khó khăn trong cuộc đời. Gia đình hỗn loạn thì dù cuộc đời có thuận lợi bao nhiêu, sự nghiệp có thăng tiến thế nào, tiền tài có dồi dào đến đâu, thì chúng ta vẫn cảm thấy mọi thứ thật vô nghĩa. Có người cam chịu hoàn cảnh gia đình và phản ứng trong vô minh để rồi chỉ vì cố giải quyết mà lại khiến mọi thứ trở nên tệ hơn. Thật may là, vẫn có nhiều người khác, sáng suốt hơn, tìm đến nơi chốn bình yên nơi cửa Phật để được nhận những lời khuyên tìm lại bình yên nơi gia đình mình.
07/09/2017(Xem: 12059)
Điều biết về chuyến thăm VN năm 2017 của Thầy Nhất Hạnh
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]