Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghệ thuật Kiền-đà-la đánh dấu sự xuất hiện hình Tượng của đức Phật trong nghệ thuật Phật giáo

23/02/201620:44(Xem: 7603)
Nghệ thuật Kiền-đà-la đánh dấu sự xuất hiện hình Tượng của đức Phật trong nghệ thuật Phật giáo

Nghệ thuật Kiền-đà-la đánh dấu sự xuất hiện hình Tượng của đức Phật trong nghệ thuật Phật giáo

 gandhara
1. Khái quát chung

Nghệ thuật Phật giáo là hiện tượng nghệ thuật, là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau. Nghệ thuật Phật giáo được nảy sinh theo sau sự ra đời của Phật giáo, khởi nguồn từ thời kỳ vương triều Khổng Tước (S. Maurya) của vua A Dục (S. Aśoka, P. Asoka) ở Ấn Độ, từ năm 273 đến 232 trước TL. Trong quá trình truyền bá của Phật giáo, giáo nghĩa của Phật giáo đã hóa thân thành các hình thức nghệ thuật khác nhau như: kiến trúc, điêu khắc, hội họa, văn học, âm nhạc… nhằm biểu hiện tư tưởng triết học thông qua hình thức nghệ thuật có liên quan đến Phật, Pháp và Tăng; là Tam Bảo trong truyền thống Phật giáo. Có thể nói nghệ thuật Phật giáo bắt nguồn từ tiểu lục địa Ấn Độ, ngay sau khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni viên tịch.

Đến thời kỳ vương triều Quý Sương ở Ấn Độ, tức Đế quốc Kushan (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Trong giai đoạn này, nghệ thuật hình tượng biểu trưng trong nghệ thuật Phật giáo đã sáng tạo ra nghệ thuật điêu khắc tượng Phật, phá vỡ trào cảng và điều chưa từng thấy có trong thời kỳ tối sơ; tức là thời kỳ trước thế kỷ thứ II, trong tác phẩm nghệ thuật Phật giáo chưa có hình tượng đức Phật. Nghệ thuật “Kiền Đà La” là một trong những lưu phái mang tính đại diện và tiên phong cho sự ra đời hình tượng của đức Phật trong nghệ thuật Phật giáo.


2. Nội dung

Vì dùng phương thức hình tượng tỷ dụ để tuyên truyền giáo nghĩa Phật pháp, nên những hình tượng đầu tiên, đặc biệt là các tượng tạc hình Phật, xuất hiện ở các vùng Càn-đà-la hay còn gọi là Kiền Đà La (Gandhāra) và Ma Thâu La (Mathurā). Tuy nhiên, với việc phổ biến Phật giáo đến những vùng Trung, Đông, và Đông Nam Á thì nghệ thuật Phật giáo lại trải qua nhiều ảnh hưởng của các nền văn hóa khác, thu nhận chúng và phát triển một hệ thống đồ tượng tinh tế và phức tạp.

Thông thường, chức năng cơ bản của nghệ thuật tôn tượng giai đoạn này là sản phẩm của nghệ thuật tuyên truyền văn hóa tôn giáo, đầu tiên chỉ là một loại tín ngưỡng sùng bái để đặt niềm tin trong tôn giáo chứ không phải là đối tượng thưởng thức nghệ thuật đơn thuần. Do vậy, nghệ thuật Kiền Đà La, đứng về chức năng của nghệ thuật có mang tính tôn giáo là một loại nghi thức trong nghi lễ và văn hóa nghệ thuật Phật giáo, có giá trị của vẻ đẹp về lý tưởng và thẩm mỹ để làm phương tiện giáo hóa truyền bá tư tưởng triết lý Phật giáo. Do đó, mang tính hiệu quả thẩm mỹ của hình thức nghệ thuật cũng như thủ pháp phổ biến và thích nghi vốn có của bản chất Phật giáo. Vì có thể khiến cho tín đồ Phật tử, quần chúng nhân dân, đối tượng thưởng thức nghệ thuật… có thể vừa thưởng thức hưởng thụ nghệ thuật vừa tiếp thu tình cảm và cảm thụ giáo nghĩa giáo lý của Phật giáo một cách tự nhiên và hòa hợp. Điều đó có nghĩa là, trong sự thay đổi ngấm ngầm về tư tưởng, tư duy, biểu hiện hành động, lời nói…mang tính tích cực và thẩm mỹ vốn có vốn được nảy sinh từ bản chất nghệ thuật Phật giáo, nghĩa là sự trong sáng và tự do ngay chính nội tại của thế giới hiện thực hay còn gọi là sự giác ngộ và giải thoát. Vì vậy, một khi nghệ thuật Phật giáo được đưa vào hệ thống nghi lễ và tất yếu giữ một chức năng nhất định thì tất yếu nảy sinh ra ảnh hưởng sâu sắc đến với xã hội đối với nội dung và hình thức của nghệ thuật.

Tính chất nghệ thuật vị nghệ thuật của Phật giáo được biểu hiện qua sự biến thiên của quá trình lịch sử là sự tương tức tương quan và dung hóa vào thời đại của lịch sử đó, là biểu hiện của quá trình phát triển xã hội và phát triển nhận thức đúng đắn của đời sống hiện thực. Tạo cho con người, xã hội, và nghệ thuật có chất sống của vị nghệ thuật gắn liền với đời sống con người và xã hội. Do vậy, loại nghệ thuật này bản thân nó đã mang hai lớp chức năng vừa tôn giáo vừa nghệ thuật tạo nên mối quan hệ đặc hữu. Có nghĩa là cả hai đều có tác dụng thẩm thấu và hòa lẫn với nhau, cả hai dung hợp lẫn nhau thành một thể, nên gọi là nghệ thuật vị nghệ thuật Phật giáo.

Kiền Đà La hay còn gọi với tên khác là Càn-đà-la và Ma-thâu-la là hai đại biểu cho nghệ thuật tượng hình của Phật giáo. Đầu tiên, đó là trường phái đã sáng tạo ra tượng đức Phật. Theo cứ liệu khảo sát của các nhà địa lý học thì khu vực Càn-đà-la, vị trí hiện nay là miền Đông Afghanistan, miền Tây Bắc Pakistan và có thời kỳ lấn sâu vào Punjab; và Ma-thâu-la (phía nam thủ đô Delhi của Ấn Độ ngày nay). Các trào lưu nghệ thuật trình bày Phật dưới hình người xuất hiện gần như cùng lúc và ảnh hưởng lẫn nhau giừa hai trường phái này. Nhưng người ta vẫn chưa xác định được việc trình bày Phật dưới hình người thực sự có trước ở miền nào.

Trong mọi trường hợp, phong cách của các nghệ nhân Ma-thâu-la thì chịu ảnh hưởng Ấn Độ giáo truyền thống trong khi đó nghệ thuật Kiền-đà-la lại phản ánh ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp vốn đã có mặt ở đó hơn vài thế kỉ Trong cuộc viễn chinh cuối của Alexander Đại đế (356 – 323 TCN) đã chiếm đóng được Taxila (gần Peshawar), là thủ đô kể từ thời vua người Achaemenid là Darius I (549 - 486 TCN).

Tại Kiền-đà-la trở thành một phần của khu vực cai trị rộng lớn của Alexander Đại đế và tiếp tục là khu vực cai trị của Hy Lạp sau khi ông qua đời. Do vậy, ở nơi này, tín ngưỡng Phật giáo và truyền thống nghệ thuật cũng như mỹ học Cổ Hi Lạp và sau đó mỹ học địa phương La Mã đã hòa hợp nhau. Thời kỳ này sự có mặt của Phật giáo Đại thừa được hưng khởi và lưu hành, cho phép dân chúng, tín đồ Phật tử lễ bái tượng Phật. Và tại địa phận này chịu sự ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp trong thời gian dài, vốn có thoái quen và tập tục lễ bái, sùng bái tượng thần. Vì vậy, tượng Phật trong thời kỳ đầu do chịu sự ảnh hưởng của thần Hy Lạp nên mang đậm phong cách Hy Lạp. Trong thế kỷ 1, cả Kiền-đà-la và Ma-thâu-la đều bị vương triều Quý Sương (S. Kuṣāṇa) chiếm đóng và chịu ảnh hưởng của nó nhiều thế kỷ (tk. thứ 5 vương triều mới rơi vào tay quân Bạch Hung). Trong thời gian này, vua Ca-nị-sắc-ca (S. Kaniṣka) giữ một vai trò quan trọng với việc ủng hộ Phật giáo nói chung và nghệ thuật Phật giáo nói riêng. Đến thế kỷ thứ III, nghệ thuật Kiền Đà La đã ảnh hưởng đến nghệ thuật A Mã La Ngõa Đệ ở Nam Ấn Độ, và do vậy trong các tác phẩm nghệ thuật Phật giáo Nam Ấn Độ cũng xuất hiện hình tượng Phật.

Sự hòa hợp và ảnh hưởng lẫn nhau của nghệ thuật mang đậm sắc thái Ấn Độ tại Ma Thâu La và của nghệ thuật mang dấu ấn Hy Lạp tại Kiền Đà La đã tạo ra một dạng nghệ thuật căn bản cho tất cả các trường phái nghệ thuật Phật giáo sau này, đó là Phật giáo Hy Lạp và nghệ thuật Phật giáo Hy Lạp.

Điêu khắc nghệ thuật Kiền Đà La luôn luôn có hình tượng Phật có khuôn mặt giống nhau hay còn gọi là thiên Phật nhất diện; hình tượng được sáng tác điêu khắc, chạm trỗ với phục trang dày, nặng và có nhiều nếp gấp. Đặc điểm được nổi lên và đặc sắc nhất là sự thể hiện sự trầm mặc sáng suốt nội tại của tượng Phật. Khuôn mặt của pho tượng Phật trong kỳ này là sự thể hiện màu sắc của nghệ thuật tạc tượng Hy Lạp và sự kết hợp tinh tế và triết lý thánh tượng đức Phật, có cảm xúc bĩnh tĩnh, trang nghiêm, bộc lộ thần thái trầm tư sáng suốt của nội tâm; bên bề mặt ngoài là y phục Cà sa có các nếp gấp gần giống như trường bào của Hy Lạp. Nhục kế (búi tóc) trên đỉnh đầu và bạch hào giữa hai chân mày (biểu trưng cho trí tuệ) và hào quang phía sau đầu biểu hiện rõ màu sắc sáng suốt thanh tịnh. Tượng được tạc, người ta vẫn thấy được những dấu tích của tóc xoắn, pháp y che hai vai, giầy hoặc những nét trang trí với những chiếc lá Acanthus được xếp theo trật tự Ca-lâm-đa bắt nguồn từ nghệ thuật Kiền Đà La.

Thời kỳ nghệ thuật Kiền Đà La là thời kỳ bước ngoặc và quá độ từ tượng Phật kiểu Hy Lạp sang tượng Phật kiểu Ấn Độ. Điều này tạo đà và thể hiện sự dung hợp hoàn mỹ, điêu luyện và tinh tế trong ý niệm, hành động được biểu hiện của tác phẩm nghệ thuật, sự kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa truyền thống bản địa Ấn Độ và ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai để rồi đi đến thời hoàng kim trực rỡ của nghệ thuật Phật giáo Ấn Độ và nghệ thuật Ấn Độ.


3. Kết luận

Trên phương diện ngữ dụng học và lý thuyết học về nghệ thuật thì nghệ thuật là một sự sáng tạo. Đó là tạo ra những sản phẩm vật thể hoặc phi vật thể chứa đựng những giá trị lớn về tư tưởng-thẩm mỹ, mang tính chất văn hóa thẩm thấu làm rung động cảm xúc, tư tưởng tình cảm cho người thưởng thức. Hay nói một cách khác, nghệ thuật là cái hay cái đẹp để người ta chiêm nghiệm, trải nghiệm qua các giác quan được biểu hiện qua các hình thức nghệ thuật.

Cũng vậy, nghệ thuật Phật giáo thường thì Phật và giáo lý, triết lý của Phật được thể hiện bằng những biểu trưng khác nhau và chúng đã trở thành những thành phần chính trong nghệ thuật Phật giáo đến ngày nay. Được gọi là nghệ thuật là vì khi được thể hiện thì là sự xuất hiện ra bên ngoài là những biểu hiện hết sức hoàn hảo với trình độ điêu luyện về hình thức và nội dung, thậm chí mang tính chất siêu việt. Và do vậy, nghệ thuật Phật giáo Kiền Đà La mang trong tự thân mình một nội tại của ngữ cảnh địa phương, của cá nhân và cộng đồng; chúng đã mang đến một vật thể sống từ những vật vô tri như đá, gỗ, giấy, lụa….với giác độ trạng thái sống của hiện tại, và dưới ánh sáng của thế giới tương lai, do vậy nghệ thuật Kiền Đà La trực tiếp hay gián tiếp đã làm cho mình một tác phẩm nghệ thuật tạc tượng, tạc hình tiên phong trong vườn hoa muôn sắc của nghệ thuật.

 

Trân trọng,

An vui với Lòng từ,

Thiền đường Thiền viện Pháp Thuận,

 

Thich Giac Chinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/11/2023(Xem: 1073)
Ôn cố tri tân tức ôn lại chuyện cũ để hiểu chuyện mới. Chuyện cũ là kho tàng kinh nghiệm cho đời sau. Tất cả mọi hưng-phế của đất nước đều do người chứ không phải do Trời. Vào năm 2018, đất nước Venezuela hỗn loạn, có tới hai chính phủ và ngoại bang xâu xé, chưa biết tương lai đi về đâu, rồi tới nước Pháp.
15/11/2023(Xem: 1036)
“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, một chữ cũng là Thầy, nửa chữ cũng là Thầy là câu lưu truyền để nói lên công ơn của những người Thầy đã dành cho chúng ta, dù nhiều hay ít, cũng là những nền tảng để mỗi người có được sự hiểu biết và phát triển theo hướng tích cực. Tôn sư trọng đạo vốn là truyền thống cao đẹp, thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, trải qua bao đời, truyền thống này vẫn luôn được giữ gìn như một gốc rễ tạo nên nhân cách, đạo đức và kiến thức cho mỗi con người, bởi không ai lớn lên mà không cần đến người dẫn dắt, hướng dẫn, không ai tự nhiên tài giỏi, hiểu biết mà không có một người Thầy.
02/11/2023(Xem: 1585)
Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Năm nào xứ Huế cũng lụt lội, dường như bão lụt đã trở thành .. ''đặc sản'' không thể thiếu của miền Trung. Được sự quan tâm chia sẻ của quý vị Phật tử và các vị hảo tâm, Hội Từ thiện Trái Tim Bồ Đề (Bodhgaya Heart Foundation) chúng tôi vừa thực hiện một buổi phát quà từ thiện dành cho những người dân nghèo, những người hoàn cảnh khó khăn.. thuộc huyện Phong Điền- Thừa Thiên Huế.. Chư Ni chùa Siêu Quần đã đại diện Hội từ thiện trao tặng cho người dần 500 phần quà, mỗi phần trị giá 400k gồm 10 ký gạo, thùng mì, dầu ăn, đường, bột ngọt, nước tương, sữa và bì thư 100k.
15/10/2023(Xem: 1184)
Mừng ngày Tiếp nối Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Ngày Doanh Nhân Việt Nam, Thái Hà Books chính thức phát hành cuốn sách quý, rất ý nghĩa “Trái tim của Bụt” với 02 phiên bản đặc biệt và phổ thông. Sách được thực hiện và gia công trang trọng, công phu, nội dung có bổ sung hình minh họa dễ hiểu cho các doanh nhân và độc giả cảm nhận rõ hơn những thông điệp của sách, để chúng ta nhắc nhau thực hành lối sống phụng sự trong hạnh phúc, để cùng nhau đi đứng nằm ngồi, nói cười và tiếp xử với nhau trong hỷ lạc và an vui, để mỗi chúng ta cùng tiếp nối sự nghiệp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
13/10/2023(Xem: 1066)
Người đời, từ khi sinh ra đến khi lớn lên, luôn có một mong cầu, đó là “sống và tận hưởng”, quan niệm đó hình thành và tồn tại cho đến khi con người mất đi, bởi lạc thú và những vật chất xa hoa là thứ khiến cho người ta hướng đến, chinh phục và khao khát có được, bởi khi có được những điều đó, người ta mới thấy cuộc đời là đáng sống.
13/10/2023(Xem: 2068)
Tứ Niệm Xứ là pháp hành (phương pháp thực hành Giáo Pháp) do Đức Phật khám phá và truyền dạy, bao gồm sự thực hành bốn loại Chánh Niệm (Trí nhớ Chánh) về Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Mục đích là để Thấy Biết như thật về Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Vậy những lợi ích cụ thể khi thực hành Tứ Niệm Xứ là gì?
07/10/2023(Xem: 1339)
Thân đau yếu là để dạy cho Tâm biết Vô Thường!! - Thân thể đau yếu, bệnh tật là để tâm khởi lên sự chán ghét thế gian và có tác dụng làm sụp đổ các hy vọng . Tâm điên đảo, vọng tưởng chạy theo đủ thứ suy nghĩ là để giúp cho chúng ta thấy rõ cái đam mê, cái tham ái vào bản ngã.
03/10/2023(Xem: 794)
Khó- Dễ trong đời DỄ là nói chẳng nghĩ suy KHÓ là cẩn trọng những gì nói ra. DỄ làm đau đớn người ta KHÓ sao hàn gắn bao là vết thương!
22/09/2023(Xem: 878)
BẠN CÓ BIẾT, VÌ SAO BHUTAN LÀ ĐẤT NƯỚC HẠNH PHÚC? Hạnh phúc của Bhutan đến từ những điều bình dị nhất: ▪️BÌNH DỊ QUA MÓN ĂN: Ăn là nhu cầu cơ bản để nuôi cơ thể sinh học, nhưng không phải sống để ăn, vì vậy thức ăn là quà tặng của tự nhiên, là tình thương của người gieo trồng, là sự ấm áp và chân thành của người chế biến, nên khi ăn họ cảm thấy hạnh phúc.
22/09/2023(Xem: 1436)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phục và vượt qua, đó là gì? Phải chăng là một vị trí cao trong xã hội? Một gia tài đồ sộ? Một danh tiếng lẫy lừng? Là vượt qua tất cả người khác để chiếm giữ vị trí độc tôn?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567