Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Doanh Nhân Phật tử Vũ Chầm, người cư sĩ uyên thâm, giản dị và đôn hậu.

21/01/201621:00(Xem: 7975)
Doanh Nhân Phật tử Vũ Chầm, người cư sĩ uyên thâm, giản dị và đôn hậu.

Doanh Nhân Phật tử Vũ Chầm, người cư sĩ uyên thâm, giản dị và đôn hậu.
vu-cham-2

Sáng nay, cũng như thường lệ, trước giờ làm việc, chúng tôi dành 15 phút cùng nhau tọa thiền dưới sự dẫn dắt của TS Nguyễn Mạnh Hùng – Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Thái Hà Books. Vì là ngày cuối tuần nên hôm nay, sau thời tọa thiền, chúng tôi cùng ngồi bên nhau hàn huyên và nghe thầy Hùng chia sẻ về những tấm gương doanh nhân Phật tử. Sáng nay thầy Hùng kể về bác Vũ Chầm, chủ tịch HĐQT tập đoàn Vina Giầy và được xem là tấm gương lớn vượt khó, vượt nghèo, một tấm gương lớn của phụng sự Đạo Phật.

Thật kỳ diệu, như thần giao cách cảm, đột nhiên thầy Hùng nhận một cuộc gọi đến. Hóa ra bác Vũ Chầm đang ở Hà Nội và muốn đến thăm thầy Hùng và Thái Hà Books. Lòng tôi vui lắm vì nghe danh bác đã lâu và giờ mới có cơ hội gặp bác tại Hà Nội, ngay tại văn phòng Thái Hà Books.

Bác Vũ Chậm năm nay đã 85 tuổi nhưng rất khỏe mạnh và  ăn nói vô cùng minh mẫn và tràn đầy trí tuệ. Tóc bácbạc trắng, da trắng hồng, miệng cười đôn hậu. Bác Vũ Chầm chia sẻ với chúng tôi những câu chuyện của cuộc đời chính bác, gắn liền với Pháp Phật.

Mở đầu câu chuyện, bác Vũ Chầm kể chúng tôi nghe về hành trình từ chàng nông dân “chân lấm tay bùn” trở thành một Chủ tịch HĐQT. Từ một cậu bé học làm giày đến khi thành ông “vua giày”. Bác Doanh nhân Phật tử Vũ Chầm lớn lên và trưởng thành từ cái nôi của nghề giày Việt Nam, làng Phong Lâm, Hải Dương nên bác đã quen thuộc với nghề đóng giày từ nhỏ. Năm 16 tuổi bác bắt đầu lập nghiệp tại đất Hải Phòng mở xưởng sản xuất, 18 tuổi quyết định vào Nam bắt đầu làm lại sự nghiệp từ đầu.

Thật thú vị và khó tin rằng năm 1957 thương hiệu giày Vũ Chầm đã lan tỏa khắp Sài gòn. Ở thời điểm đó bác Vũ Chầm đã sở hữu gần 200 công nhân và nhiều tài sản. Sài Gòn giải phóng, tài sản sung công vào hợp tác xã. Tay trắng và lại một lần nữa bác Vũ Chầm lại khởi gây dựng lại sự nghiệp. Những tưởng đây chính là khó khăn sẽ khuất phục người đàn ông Phật tử có bản lĩnh và quyết tâm này, nhưng đây lại chính là cơ duyên khiến cho bác gặp người Thầy dẫn dắt cuộc đời mình, đó chính là Hòa thượng Thích Minh Châu. Bước ngoặt lớn của đời bác.

Bác Vũ Chầm quy y cửa Phật hơn 30 năm nay, bác là học trò lớn của Hòa thượng Thích Minh Châu. Trong suốt hơn 30 năm đó tuần nào bác cũng dành ba buổi bên vị minh sư của mình – Hòa thượng Thích Minh Châu - để học Pháp. Nếu được gặp bác Vũ Chầm, bạn sẽ thấy sự uyên thâm Phật Pháp và một tấm lòng của bậc chân tu tỏa ra nơi bác. Bác nói rằng mỗi con người, doanh nghiệp hay một xã hội, muốn tồn tại vững bền bao giờ cũng cần có từ bi và trí tuệ, thiếu hai nhân tố này chắc chắn tổ chức đó sẽ bại vong.

Đức Phật từng dạy “Thân người khó được. Pháp Phật khó nghe”, người tu hành từ khi khởi tâm tu cho tới khi thành Phật quả phải trải qua vô số kiếp. Trong 6 cõi luân hồi thì con người may mắn nhất và có điều kiện tốt nhất để tu thành Phật. Bác Vũ Chầm nhắc lại cho chúng tôi rằng có được thân người khó được giống như con rùa mù nằm dưới đáy biển, có một bọng cây (hoặc khúc gỗ) nổi có một lỗ tròn ở giữa, trôi vô định trên mặt biển khơi mênh mông. Con rùa mù cứ 100 năm mới nổi lên mặt nước một lần. Khả năng để con rùa mù nổi lên mặt biển và chui lọt đầu vào cái cái lỗ đó bằng với khả năng có được thân người (gần như là không thể). Bác khuyên chúng tôi cần tu tập tinh tấn,ngày hôm nay phải tốt hơn hôm qua bởi chúng ta rất may mắn khi có được thân người. Chúng ta hãy tu tập làm sao để có thể đi từ tối ra sáng, từ sáng đến nơi sáng hơn.

Bác Vũ Chầm nói chuyện Phật Pháp rất uyên thâm nhưng đơn giản và rất dễ hiểu. Bác luôn ví mình là một ông già quê mùa đi làm kinh tế, người nông dân đi học Phật. Bác khẳng định đến vài lần rằng Đạo Phật là đạo như thật, đạo Phật là đạo đến để mà thấy chứ không phải đến để mà tin. Thật ra con người sống với ảo tưởng quá nhiều, tham sân si và chạy theo vọng tưởng. Thân chúng ta nhơ nhớp, là tổ hợp những máu, mủ, xương, thịt, phân mà chúng ta không biết. Chúng ta mải mê chăm sóc dục lạc của thân mà quên mất chăm sóc tâm, tâm mới chính là ông chủ, còn thân chỉ là khách. Tất cả những gì không thường hằng, chịu vòng sinh tử đều là khách. Lạc thế gian là lạc hỷ như phân, lạc xuất thế gian là lạc hỷ vĩnh viễn.

Bác Vũ Chầm cũng nhấn mạnh rằng chúng tôi là người làm sách, tức người tri thức thì phải biếttìm hiểu về Đức Phật lịch sử, nhận ra được tính Phật trong chính bản thân mình. Đức Phật lịch sử quan trọng hơn nhiều so với Đức Phật tôn giáo. Rất tiếc rằng hầu hết chúng ta hiện nay đều mới chỉ lễ lạy Đức Phật tôn giáo, Đức Phật của cầu xin và đó không phải là cách hiểu đúng. Chúng ta đã chấp thủ tà kiến từ lâu đời. Chúng ta đi từ sáng vào tối mà không biết. Nhiều tập tục do người đầu đàn suy tưởng ra và xưa bày nay làm, nên người sau cứ thế theo mà không chịu tư duy, ví dụ như tục đốt vàng mã hay cúng ông công ông táo, tục cầu xin…. Mọi pháp học phải đem vào ứng dụng trong cuộc sống để cuộc đời mình hạnh phúc thì mới được gọi là chánh pháp.

Thân sinh tử này ai cũng như ai. Con người chúng ta là một tiểu vũ trụ, khi con người giác ngộ được rồi thì hòa mình vào vũ trụ lớn, phải sống thuận ứng với vũ trụ quan. Đức Phật là người chỉ đường sáng, còn đi hay không là do mình tự chọn. Nhân và quả luôn song hành cùng nhau, trong nhân sẵn có quả, trong quả sẵn có nhân. Đã tu thì lúc nào thần thái cũng vui tươi, từ bi hỷ xả, chánh niệm tỉnh giác mọi lúc mọi nơi, trong mọi thân khẩu ý….. Người tri thức tu tập lại càng phải ý thức được những điều trên, bởi họ là người có ảnh hưởng tới nhiều người khác.

Bác Vũ Chầm đặt câu hỏi rằng con trâu phải đeo cái ách để đi cầy và liệu con người có cái ách không? Câu trả lời rằng con người chúng ta cũng có ách nhưng là cái ách vi tế. Con trâu hư và phá phách ách thì ông chủ sẽ làm cái ách tốt hơn, còn con người hư hỏng và phá phách thì cái ách của chúng ta chính là nhân quả.

Bác Vũ Chầm chia sẻ liên tục mấy  tiếng đồng hồ liền và thật tuyệt vời. Bác chỉ rất rõ cho chúng tôi rằng có 4 tiến trình mà chúng ta lựa chọn trên con đường tu học: đi từ tối sang tối, sáng sang tối, tối sang sáng, sáng ra sáng hơn.Đời này mình khéo tu chuyển nghiệp thì sẽ đi được từ tối sang sáng, từ sáng sẽ ra sáng hơn.

Sở dĩ thân thể chúng ta hôi hám do cái gì? Do 5 triền cái (Tham, sân, trạo hối, hôn trầm, nghi ngờ)và 10 kiết sửa. Bác ví các triền cái tham như bát nước pha màu, sân như bát nước sôi,hôn trầm như bát nước có rong rêu, trạo hối như bát nước có sóng,nghi ngờ như bát nước có đục. Chính vì dính mắc vào 5 triền cái trên mà chúng ta không thấy được bản lai diện mục của mình. Khi tham khởi lên, khi sân khởi lên thì vô minh tùy miên có sẵn ở đó sẽ khởi lên còn mạnh hơn trước. Tham tùy miên chưa nhổ, khổ này còn tiếp diễn.

Câu chuyện chia sẻ của bác doanh nhân Phật tử với chúng tôi có lẽ sẽ không dừng nếu như bác không có một cuộc họp với lãnh đạo Vina Giày tại phía bắc ngay sau đó. Lời bác chia sẻ như thấm vào gan ruột, tâm huyết và uyên thâm. Sau bao nhiêu chìm nổi trên thương trường, từng bốn lần khởi nghiệp nhưng người doanh nhân phật tử này vẫnan lạc và giản dị như thế. Bình thản, đôn hậu và trí tuệ là những gì đọng lại về vị doanh nhân này. Những điều được bác sách tấn hôm nay thật ý nghĩa, đã giúp truyền lửa cho chúng tôi, những người trẻ học Phật qua cuộc sống hàng ngày, với một tâm thế Phụng sự.

Chúng tôi vui mừng vô cùng khi được gặp bác, được đón bác, được nghe bác chia sẻ. Tôi mong muốn sẽ được mời bác doanh nhân Phật tử Vũ Chầm đến nói chuyện với thật nhiều thật đông các Phật tử Hà Nội, nhất là các bạn trẻ, các em sinh viên. Mong lắm.

Thuần Tâm Thảo Triều – Phó Tổng giám đốc Điều hành công ty sách Thái Hà

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5391)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4402)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5276)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5507)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8626)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6492)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6228)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4532)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9545)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5992)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]