Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Khất Thực

18/12/201509:14(Xem: 7726)
Người Khất Thực

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Sīlaguṇa-Mahāthera)

NHẶT LÁ RỪNG XƯA
Tủ sách Huyền Không Sơn Thượng

(Phật lịch 2558 – 2015)

Người Khất Thực

 

Mình là tu sĩ tầm thường
Xin cơm bánh trái mười phương phố, làng
Có gì hãnh diện, khoe khoang?
Lấy gì kênh kiệu, vênh vang với đời?
Xin ăn từng vá ơn người
Trú an hơi thở chẳng rời bước chân
Xả ly từng niệm tham sân
Thong dong y bát nẻo gần, lối xa
Thuở xưa, Phật cũng vậy mà
Trang nghiêm thân giáo, nhà nhà hóa duyên
Cho tín tâm nở chợ triền
Để không hổ thẹn phước điền nhân gian
Khởi tâm từ ái dịu dàng
Giữ tâm bình đẳng, hèn sang, giàu nghèo
Phủi buông bản ngã buộc đeo
Nhẹ như mây trắng, truông đèo thênh thang
Chiếc y là mảnh trăng vàng
Rạng ngời chánh pháp, đạo tràng sa-môn
Chút thanh khiết, chút tâm hồn
Nếp xưa, hạnh cũ, thiền môn giữ gìn!

Mỗi lần ôm bát đi trì bình khất thực tôi lại tưởng nhớ đến tôn giả Mahā Kassapa (Đại Ca Diếp) và tôn giả Subhūti (Tu-bồ-đề). Vị tôn giả “đệ nhất đầu-đà”  Đại Ca Diếp chỉ đi bát ở nơi xóm nhà nghèo nàn để độ cho những người cùng cực đói khổ nhất. Vị tôn giả “đệ nhất chư thiên ái kính” Tu-bồ-đề thì chỉ đi bát nơi những gia đình trung lưu hoặc giàu có. Cả hai trường hợp có vẻ “không bình đẳng” này hẵng là phải có nhân duyên chứ?

Tôn giả Mahā Kassapa là con trai độc nhất của một gia tộc cự phú mà gia sản kim ngân không thua kém trưởng giả Cấp Cô Độc bao nhiêu. Trước khi xuất gia, chàng trai cùng người vợ thủ ước sống như vợ chồng nhưng giữ gìn phạm hạnh này - phải mất ba ngày mới bố thí hết gia sản, không giữ lại gì cho mình, rồi ra đi sống đời không nhà cửa lang thang tìm đạo. Sau khi gặp đức Phật, được ngài giác ngộ, tôn giả chọn nếp sống với 13 pháp đầu-đà khổ hạnh. Trên đường du phương hoằng pháp, tôn giả quan sát thấy rõ những kẻ cùng cực đói khổ trên đời này đều là do nhân nhiều đời kiếp với tâm keo kiệt bủn xỉn, chưa hề biết cho đi, san sẻ cho ai, giúp đỡ cho người vật dù một xu một cắc hay muỗng cháo, vá cơm. Hãy tạo duyên lành cho họ có cơ hội mở rộng tấm lòng, bố thí cúng dường cái gì đó để kiếp sau đỡ khổ hơn. Thế rồi, tôn giả tìm đến những xóm nhà lao động nghèo khổ, những gia đình Thủ-đà-la hay Chiên-đà-la để trì bình khất thực. Món cơm tấm trộn trấu cũng được. Món cháo siu nguội còn lại ngày hôm qua cũng được. Có lần đứng trước cửa nhà của một người nô lệ, căn nhà tồi tàn chỉ như chuồng bò xiêu vẹo. Một người đàn bà bước ra chào xá ngài với nước mắt: “Bạch ngài, con không có gì cả!”Tôn giả dịu dàng nói: “Không ai là không có gì, này nữ thí chủ!” Người đàn bà nói lời chân thật: “Mấy ngày hôm nay con chỉ xin được nước rửa gạo tấm của người hàng xóm để uống cần hơi”. Tôn giả mỉm cười nhẹ: “Thí chủ cầm hơi được thì ta cũng cầm hơi được mà!” Nghe nói vậy người đàn bà hối hả vào nhà, lấy “thực phẩm”  ấy sớt vào bát cho ngài. Tôn giả trân trọng đón nhận rồi trải y hai lớp ngồi xuống và thọ dụng “vật thực”  ấy ngay tại chỗ. Người đàn bà sung sướng, hoan hỷ quá, quỳ sập xuống, ràn rụa nước mắt. Lần thọ thực ấy của tôn giả là sau 7 ngày xuất diệt thọ tưởng định nên phước báu của người cúng dường được trổ quả tức khắc: Chư thiên xúc động, vua chúa xúc động, chư vị đại gia xúc động ai cũng muốn đến để chia phước. Kể tóm tắt là sau đó, người đàn bà thoát cảnh đói nghèo.

Tôn giả Subhūti là em trai của trưởng giả Cấp Cô Độc, là một thương gia, là một triệu phú, sau khi gặp Phật, xuất gia, ông chọn núi rừng thanh vắng để ẩn cư, tu tập. Một lần nọ, tôn giả ôm bát đứng nơi một căn nhà nghèo khổ. Bên trong, người đàn bà Chiên-đà-la vừa chuẩn bị xong một bát cháo loãng định cho con ăn. Thấy tôn giả, bà nhìn quanh, đưa tay lục tìm chỗ này, chỗ nọ... Có lẽ thấy không còn vật thực nào khác nữa, bà bước ra, đổ hết bát cháo vào bát của ngài. Đứa bé khóc ngăn ngắt. Bàng hoàng cả người, tôn giả nói: “Thí chủ không còn gì! Cả cho mình và cho đứa trẻ. Thọ nhận thì ta đã thọ nhận rồi. Vậy hãy lấy cháo này cho trẻ nó ăn”. Nói ba lần như thế, người đàn bà cũng không chịu: “Thân phận con thấp hèn. Thấy ngài, được cúng dường gì cho ngài, con cảm giác như cọng cỏ khô mà hớp được một chút sương; như giữa sa mạc, một mầm xanh nhỏ nhoi lại được nhú lên! Ngài đừng lấy đi chút hy vọng cuối cùng của con trên cuộc đời này!” Thuở ấy, tôn giả đang còn phàm nên ngài đã chảy nước mắt và người đàn bà cũng chảy nước mắt. Quả thật, tôn giả đã không an tâm được khi nhận vật thực nơi những người quá nghèo khổ; ngài có cảm giác như tước đoạt hoặc bớt xén vào cái phần vật thực vốn đã quá ít ỏi của họ! Đức vua Bimbisāra nghe được chuyện, xúc động quá, tức khắc ông nói với quân hầu: “Các ngươi hãy tìm cho ra ngôi nhà của người nô lệ ấy. Trẫm sẽ ban thưởng xứng đáng, hậu hĩ; không chỉ là một giọt sương mà có thể là cả một cơn mưa rào!” Thế đấy, rồi người nữ nô lệ kia cũng thoát được cảnh khốn khổ.

Chuyện xưa là như vậy.

Hơn một năm nay, hễ đến ngày chủ nhật là chúng tôi đi trì bình khất thực. Thường thì tôi cùng chư sư, khi mười, mười hai, đôi khi mười tám, hai mươi vị ôm bát đi xin ăn khắp thành phố Huế, cả ngoại ô, kể cả một vài làng quê xa. Vật thực ngày nay, thời đại vật chất thịnh mãn này thì quá nhiều, quá sung mãn, và ai ai dường như cũng có khả năng đặt bát cúng dường cả. Không có cái cảnh “xót xa” như thuở trước. Chúng tôi không dám noi gương hai vị đại tôn giả ở trên - như vầng nhật nguyệt lồng lộng giữa trời cao - chỉ xin được như là hạt bụi dính trên đôi chân trần của quý ngài thôi. Chúng tôi là gì cơ chứ? Đời sống tu sĩ thời nay quá lợi dưỡng, quá đủ mọi tiện nghi; và bản thân chúng tôi cũng vậy, thì một vài hôm sống theo hạnh xin ăn, chẳng lẽ lại không thực hiện nổi hay sao?

Chúng tôi, trên từng bước đi, ai cũng cảm nhận được rằng, khi đi trì bình khất thực như thế mình sẽ học được nhiều điều, và sự tu tập cũng khá hơn so với những lúc ở chùa với những công việc liên hệ bộn bề quanh năm. Và có một thông điệp rõ ràng là chúng tôi không thọ nhận tiền bạc đúng với giới điều quy định để phá bỏ hình ảnh xấu như ở những nơi khác đầy rẫy tu sĩ giả mạo kiếm ăn tà mạng.

Chúng tôi đều là tu sĩ còn lắm tham sân phiền não, xem việc đi trì bình khất thực là một pháp môn tu tập nên đã tự răn bảo mình những điều tâm niệm để luôn cố gắng thu thúc và hành trì.

Có mười điều tâm niệm như sau:

Điều Một: Mình là một tu sĩ đi xin ăn, xin ăn cả “những người đi ăn xin” thì mình đúng là kẻ vô sản, bần hàn nhất trên thế gian. Vậy nếu có cơ sở chùa chiền, tu viện, tự viện, vàng bạc, tiền gởi ngân hàng... gì đó thì đều là của đàn-na tín thí, của Tam Bảo... chớ nào phải của mình đâu!

Điều Hai: Mình là tu sĩ vô sản bần hàn như điều một, thì có gì đáng để tự hào, hãnh diện; chẳng có gì đáng để vênh váo, phô phang, kiêu căng, ngã mạn. Hãy học hạnh của tôn giả Sāriputta tự coi mình như miếng giẻ chùi chân, ai chùi chân dơ bẩn lên đấy cũng được cả.

Điều Ba: Mình là tu sĩ đi xin ăn là thọ nhận tấm lòng quý kính, đức tin của mười phương đàn-na tín thí - thì coi chừng, phải cẩn thận khi thọ dụng, là miếng sắt lửa địa ngục nung đỏ!

Điều Bốn: Mình là tu sĩ đi xin ăn, khi nhận cái kẹo, cái bánh hay gói mì, hộp sữa thì đều phải trân trọng bình đẳng như nhau– vì đằng sau vật thực ấy là tấm lòng thành, là sự cung kính cúng dường của thập phương tín thí.

Điều Năm: Mình là tu sĩ đi xin ăn thì đừng có “tâm viên, ý mã” mà phải thường trực chánh niệm, tỉnh giác; có thể tập trú năng lượng tâm từ, có thể tập trú tâm giải thoát cho thí chủ có phước mới xứng với phẩm hạnh của sa-môn.

Điều Sáu: Mình là tu sĩ, mình là ông sư, mình là vị tăng, đại diện cho chư thánh phàm tăng ba đời – thì phải trang nghiêm, mẫu mực, sáu căn gìn giữ, phải lưu lại hình ảnh xuất trần tam y nhất bát như một biểu tượng thánh thiện và cao đẹp giữa lòng thế gian.

Điều Bảy: Mình là tu sĩ thì đây là cơ hội cho mình an lạc trong từng bước chân, trong từng hơi thở tỉnh thức hiện tiền – vì khi ấy mình không tham sân si, không phiền não, không bị những hạt giống xấu ác nhiều đời ở trong tâm chi phối.

Điều Tám: Mình là tu sĩ thì phải học hạnh của tôn giả Puṇṇā (Phú-lâu-na) như một thớt voi lâm trận, không sợ hãi bất kỳ một lằn tên mũi đạn nào từ những lời đàm tiếu, khinh thị, chê bai... kể cả sỉ nhục, chửi mắng của ngoại đạo, của ác kiến thế gian.

Điều Chín: Mình là tu sĩ, trong lúc đi xin ăn, có thể bị xe tông, tai nạn hoặc cái chết có thể xẩy ra bất cứ lúc nào – thì mình sẽ mỉm cười đón nhận nhẹ nhàng và vô cùng thanh thản.

Điều Mười: Mình là tu sĩ tầm thường, còn nhiều xấu ác, trước đây có lỡ phạm giới này, giới kia, nặng hay nhẹ thì ít nhất những thời gian ôm bát đi xin ăn như thế, tâm và trí mình cũng trắng bạch như vỏ ốc, mát mẻ, trong sáng và thanh tịnh dường bao!

Tôi thấy rằng, Phật giáo Srī Laṅka một thời thịnh đạt là vậy nhưng bây giờ không còn giữ được truyền thống trì bình khất thực nữa, nói rõ hơn là truyền thống ấy đã mất. Phật giáo Nam tông Việt Nam do nạn sư giả đi ăn xin quá nhiều nên Giáo hội cũng như chính quyền không cho phép đi khất thực; như vậy là tất cả các tỉnh thành trong nước, truyền thống này cũng đã mất. Riêng tại Huế, hơn một năm nay chư tăng trì bình khất thực từ mười đến hai mươi vị, đi đứng trang nghiêm, đúng pháp và luật, chỉ nhận vật thực không nhận tiền bạc nên đã gieo một hình ảnh đẹp cho cố đô. Một số tờ báo như Văn hoá Phật giáo, Giác ngộ oline, Liễu Quán... đều có viết bài và đăng hình ảnh với những tiêu đề rất ấn tượng: Chủ nhật vàng, Lặng lẽ trên đường, Ánh vàng sưởi ấm kinh thành... Ngay chính đài báo tỉnh nhà cũng đưa tin và hình ảnh và xem như là một nét văn hoá đẹp của đất thần kinh.

Do trước đây, cố đại trưởng lão Hộ Nhẫn đã đi trì bình suốt năm mươi năm, nay chúng tôi, những sa-môn hậu học cũng quyết gìn giữ truyền thống của chư Phật còn mãi giữa đất thần kinh văn vật mà ai cũng xem như là thủ phủ của Phật giáo Việt Nam.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/10/2014(Xem: 7517)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
13/10/2014(Xem: 8628)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn. Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.
13/10/2014(Xem: 10722)
Vào ngày 21 tháng Chín, đông đảo công dân từ khắp nơi trên nước Mỹ, và từ nhiều vùng đất khác, sẽ được hội tụ về thành phố New York tham gia vào cuộc diễu hành về sự biến đổi Khí hậu (The People’s Climate March), đây được cho là cuộc diễu hành vì khí hậu lớn nhất trong lịch sử. Cơ hội trực tiếp cho cuộc diễu hành là sự tập hợp của các nhà lãnh đạo thế giới tại Liên Hiệp Quốc dành cho một hội nghị thượng đỉnh về sự khủng hoảng khí hậu được triệu tập bởi Tổng thư ký LHQ. Mục đích của cuộc diễu hành là báo cho các nhà lãnh đạo toàn cầu biết rằng thời gian để từ chối và trì hoãn đã qua, chúng ta phải hành động ngay nếu chúng ta muốn bảo vệ thế giới chống lại sự tàn phá về sự biến đổi khí hậu.
12/10/2014(Xem: 11592)
Các nhà văn và nhà báo đều có tầm ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Vả lại, dù cho đời người có ngắn ngủi đi nữa thì những gì đã viết cũng sẽ còn lưu lại hàng nhiều thế kỷ. Trong lãnh vực Phật giáo thì những lời giáo huấn của Đức Phật, của ngài Tịch Thiên và của những vị đại sư khác nhờ được ghi chép lại thành văn bản nên đã được lưu truyền qua những thời gian lâu dài để nói lên tình thương yêu, lòng từ bi và những hành vi vị tha phát xuất từ tinh thần Giác ngộ mà cho đến tận ngày nay vẫn còn giúp chúng ta cơ duyên được học hỏi.
11/10/2014(Xem: 8956)
18 giờ tối ngày 9/10/2014, đông đảo Phật tử, doanh nhân, sinh viên và các bạn yêu đọc sách đã được học hỏi rất nhiều từ thiền sư Minh Niệm, tác giả cuốn sách “Hiểu về trái tim” tại nhà sách Thái Hà ( số 119, C5, phố Tô Hiệu, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Cá nhân tôi cũng vậy. Tôi học được rất rất nhiều. Thầy Minh Niệm đã chia sẻ nhiều trải nghiệm sâu sắc, phong phú của chính thầy đến với những ai may mắn có mặt để giao lưu, để lắng nghe. Đối với rất nhiều người, đó là những điều mới mẻ và hữu ích.
10/10/2014(Xem: 8544)
Vào năm 2004 lực lượng Hồi giáo cực đoan Taliban chiếm toàn bộ khu vực thung lũng Swat, nơi em đang sống bình yên với bố mẹ và hai người em, hằng ngày cắp sách đến trường. Tiếp đó, từ năm 2007, Taliban cấm phụ nữ không nghe nhạc và hạn chế họ lui tới nhiều cơ sở công cộng. Đến 15.01.2009 thì Taliban lại ban hành một sắc lệnh mới cấm các em học sinh nữ đi học, phá hủy khoảng 150 trường học. Thời gian này đài BBC phổ biến một tập nhật ký của một cô gái Pakistan 11 tuổi có tên là Gul Makai bằng tiếng Urdu trên trang Blog của đài BBC. Sau này người ta mới biết được Gul Makai là bút hiệu của Malala Yousafzai.
08/10/2014(Xem: 10583)
Ông Dan Stevenson không phải là một Phật Tử, cũng không theo một tôn giáo có tổ chức nào cả. Ông là một người dân cư ngụ trên đại lộ số 11 ở khu Eastlake của Oakland (California.) Vào năm 2009, khi ông đi vào trong cửa tiệm Ace chuyên bán vật dụng sắt thép dùng trong nhà, ông chợt hứng khởi phát tâm và đã bỏ tiền mua một pho tượng đức Phật bằng đá cao 2 feet (khoảng tương đương với hơn 60 cm). Sau đó ông mang về và gắn tượng Phật này vào một góc đường trong khu gia cư giữa đại lộ số 11 và con đường số 19.
06/10/2014(Xem: 9723)
“The History of Sampan” “Chiếc thuyền này thường xuyên được neo tại đây vốn là chiếc thuyền của người Việt Nam di tản, đã dạt vào bờ này với 167 người lớn và trẻ em vào tháng 5-1980 …May thay một thời kỳ non trẻ đã trôi qua, nhiều kinh nghiệm quý báu đã được tổng kết, người ta đã biết đắn đo hơn khi nói về một thời đã qua. Ngày nay Việt Nam là một cộng đồng hòa hợp tốt đẹp hơn xưa, thậm chí còn là chỗ “thích nghi” cho một số người nước ngoài, là “điểm đến” cho doanh nhân và du khách. Có những điều tưởng như giản đơn nhưng con người cần cả một thế hệ mới hiểu hết. Bài học của hòa hợp dân tộc và lòng cởi mở nhân ái ngày xưa của vua Trần dường như bị quên mất sau nhiều thời kỳ chiến tranh và chia cắt khốc liệt, nay cần phải được ôn lại…
29/09/2014(Xem: 8205)
Không học Phật pháp thì không biết đường nào để giải thoát, nhưng cái thấy trong lúc chứng ngộ – tuyệt nhiên không giống với những gì ta đã học. Tấm bản đồ không phải con đường, càng không phải chỗ mình muốn đến. Nhưng bỏ mất nó thì có mà chết, mà ôm cứng lấy nó cũng chết. Muốn tu học ngon lành, hãy hỏi mấy em hướng đạo sinh cách dùng bản đồ.
26/09/2014(Xem: 12887)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền não là tâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận. Và cũng từ đó ánh sáng vô tận khởi hiện. Ánh sáng vô tận trong tâm ta không thể khởi hiện, vì tâm ta chứa đầy phiền não và phiền não đã tạo thành những chủng tử phân biệt và kỳ thị vận hành liên tục ở trong tâm ta, khiến cho mạch sống vô tận bị tắt nghẽn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]