Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Năm Mới & Chuyện Cũ, Mới

18/12/201509:09(Xem: 7028)
Năm Mới & Chuyện Cũ, Mới

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Sīlaguṇa-Mahāthera)

NHẶT LÁ RỪNG XƯA
Tủ sách Huyền Không Sơn Thượng

(Phật lịch 2558 – 2015)

Năm Mới & Chuyện Cũ, Mới

 

Hằng năm, cứ vào lệ thường đêm giao thừa, thầy trò chúng ta thường tụng kinh phúc chúc an lành cho nhân loại, cho đất nước Việt Nam, cho chư thiên, thọ thần, cho tất cả ân nhân, thí chủ, cho chư Phật tử gần xa và cho cả chúng ta một năm mới tốt lành hơn, an vui hơn.

Sau đó là buổi nói chuyện về năm cũ, năm mới. Những chuyện năm qua cái chúng ta làm được, cái chúng ta làm chưa được. Sự tu học cũng vậy. Trước tiên là thầy, thầy có những khiếm khuyết, những sai lầm nào đó về bản thân cũng như trong cung cách xử sự đối với học chúng. Thầy đã có lời sám hối khi năm đó thầy có vài ba lần nổi giận la mắng nặng lời một vài người đã sai lỗi quá thô thiển về thân, về khẩu. Thầy cũng không được ỷ lại vào tuổi già mà ngủ nhiều hoặc lười nhác không sít sao theo chương trình làm việc mỗi ngày. Thầy cũng làm biếng đi trai tăng, cầu an, cầu siêu nơi này nơi khác; và luôn cố ý đẩy “bổn phận” ấy lên chúng kinh sư. Thời gian gần đây, còn cái bậy nữa, là khi dạy học thầy không được nhiệt tình cho lắm, nói rõ là thiếu lửa! Có lẽ phần lỗi là do thầy chưa tu luyện “giáo hoá thần thông”  tới nơi tới chốn hoặc đã bỏ quên “nghệ thuật sư phạm”  gần 50 năm không ngó ngàng tới. Thế là bao nhiêu “cái chưa được” của thầy, thầy mang ra nói gần hết, có phải thế không?

Và bây giờ là đại chúng. Đầu tiên, thầy cảm ơn chư sư và chúng điệu đã chăm lo công việc tương đối chu đáo trong ngoài. Hai thời khoá công phu và tập thiền không bỏ bê. Vườn cảnh rộng cả vài mẫu Tây mà quanh năm tương đối xanh, sạch, đẹp. Đặc biệt thầy ghi nhận thành quả của “lực lượng lao động chính quy” trong những công việc nặng nề về vận chuyển đá, xây những bờ tường đá; đào hố, chuyển cây và trồng cây, phát rừng và dọn dẹp sửa sang hồ, khe, suối, các con đường... sau mùa mưa xói lỡ. Công đức tiếp theo thuộc về các sư, các chú ở trong ban bếp núc, chợ búa, củi đuốc bao giờ cũng vất vả lo ăn cho bốn, năm mươi người, lúc có nhiều thợ thầy thì còn đông hơn thế. Lại còn cho ăn chu đáo mười mấy con chó và hai mươi mấy con mèo nữa chứ! Không đơn giản đâu, nhất là khi chúng bị thương do cắn nhau, bị dòi làm tổ, bị các loài “vắt”, bọ đeo kín lưng, bị nhiều thứ bệnh phải mang xuống bác sĩ thú y. Kế nữa, thầy hoan hỷ ghi nhận công đức của “ai đó”  luôn quan tâm các cụm nhà vệ sinh công cộng cho khỏi hổ thẹn với khách vãng lai! Cuối cùng, thầy cảm ơn “Ban Tri Sự” bốn vị tỳ-khưu điều hành, quán xuyến công việc, tuy còn thiếu sót hoặc khập khễnh ở đâu đó nhưng mong rằng, nhờ đạo tình huynh đệ, lục hoà, tứ nhiếp cùng với kinh nghiệm tự thân của mỗi người, rồi chúng sẽ tự động điều chỉnh dần dần. Như vậy, rõ ràng ai cũng tất bật công việc trong ngoài còn riêng thầy được đại chúng cho nghỉ ngơi, không làm gì cả; thầy cũng nguyện làm sao “sự nghỉ ngơi, không làm gì cả”  ấy cho xứng đáng “đồng tiền bát gạo!”

Thầy cũng thẳng thắn nói ra, ai đó với những tập khí phải cần được thấy rõ chứ đừng xác định “cái tôi” quá nhiều trong công việc, trong giao tiếp, trong cư xử đệ huynh. Ai đó, bao nhiêu bữa không tụng kinh, không hành thiền. Ai đó không chu toàn bổn phận mà Ban Tri Sự đã giao phó, cắt đặt. Ai đó còn biếng lười trong công việc. Ai đó không chịu khó học hỏi để nắm bắt cho kỳ được giáo pháp căn bản, pháp hành căn bản. Ai đó có tật hay dạy người, giảng cho khách điều này điều kia nhưng óc mình còn trống rỗng bên trong. Ai đó thích sai bảo kiểu gia trưởng trong lúc việc ấy tự tay mình làm được. Ai đó còn ham chơi, còn ham games, còn ham vớ vẩn, phù phiếm, hời hợt các trang facebook, còn ham “buôn dưa lê”, còn ham xuất hiện nơi đám đông, ham bắt chuyện với khách... vân vân và vân vân. Hằng chục cái vân vân như thế thầy trò chúng ta cũng đã không ngần ngại đem ra bàn hết, nói hết. Chúng ta thường chào đón năm mới như vậy đó.

Năm nay, thầy nói về cái khác, đặc biệt là nói về cái mới. Năm mới thì cái gì cũng mới. Cây cảnh mới, hoa lá mới; mới cạo đầu, mới ngày tháng, mới tiết xuân, mới phố phường, mới trời đất, mới người cảnh; và mới cả không gian rừng thiền có thơ mới, giấy mới, chất liệu mới, thư pháp mới của các sư, các chú nữa... Cái gì cũng mới, còn “con người” chúng ta thì sao nhỉ?

Coi chừng nghe, năm mới mà chúng ta không “mới mẻ” lại còn quá “cũ kỹ” đấy. Coi nào: Nghiệp cũ, tâm cũ và mọi sinh hoạt lăng xăng bên ngoài cũng có từ tập khí cũ ngàn đời. Khái quát, chúng ta hãy điểm mặt, chỉ tên những cái cũ gốc, những cái cũ có sức mạnh chi phối cả đời sống của chúng ta, nghiệp mệnh của chúng ta. Là người học Phật, tu Phật, chúng ta cần phải thấu rõ cái cũ, mới rốt ráo này.

Đầu tiên là nghiệp cũ. Tất cả chúng ta đến trái đất này, làm người do nghiệp dẫn dắt, do nghiệp quyết định. Chúng ta có nhiều loại nghiệp. Nghiệp do có sự chủ ý, quyết tâm mạnh mẽ, gọi là cực trọng nghiệp. Nghiệp do thói quen lâu ngày thực hiện một công việc, ví như việc làm hằng ngày, gọi là tập quán nghiệp hay thường nghiệp. Nghiệp do chứa nhóm, tích luỹ mỗi ngày mỗi ít, gọi là tích luỹ nghiệp. Nghiệp do hành động trước khi lâm tử gọi là cận tử nghiệp. Giây phút cuối cùng của đời người, trong tất cả các nghiệp ấy, nghiệp nào có năng lực mạnh mẽ nó sẽ quyết định tâm thức tái sanh. Ví như trong một chuồng bò. Thường thì con bò nào ở gần chuồng, khi mở cửa, nó sẽ bước ra đầu tiên – đây là trường hợp của cận tử nghiệp. Có trường hợp “con bò cận tử nghiệp”, dù ở gần cửa nhưng yếu quá, bị một con bò to lớn, mạnh mẽ xông tới, đạp cửa, tông rào nhảy ra – đây là trường hợp những cực trọng nghiệp không kể thiện hay ác. Có trường hợp khác nữa, nghiệp nào cũng yếu, chỉ có những nghiệp làm hằng ngày mới có đủ sức mạnh tuôn rào – thì lúc ấy “con bò thường nghiệp” an nhiên xông ra cửa!

Khái quát như vậy để chúng ta biết rằng, khi có mặt ở đời này, chính nghiệp tạo nên thân thể, ngũ quan đẹp xấu, cá tính, trí ngu, cùng hoàn cảnh giàu nghèo sang hèn liên hệ - được gọi là chánh báo và y báo. Chánh báo và y báo là căn cước, là ADN của một người từ thuở mới sinh ra. Và toàn bộ cái mà chúng ta thừa hưởng trên đời này chính là do nghiệp cũ, nghiệp từ kiếp trước tái tạo.

Viết đến chỗ này thầy muốn có một ví dụ cho dễ hiểu. Lần đó, thầy đi Ấn Độ, xe du lịch dừng nghỉ tại một ngôi làng được xem như là nghèo nhất ở đây. Nhà cửa của họ chỉ tợ như là chuồng bò, chuồng trâu mà thôi. Có nhà không có giường, ghế, thấy họ nằm khoèo trên nền đất. Mái, tường lắp ghép tạm bợ cây, gỗ, tranh, lá rách nát. Bên này mấy con bò, bên kia mấy con dê. Phân, rác thải trong nhà, ngoài nhà. Thế mà có mấy người đàn ông ngồi chồm hổm tỉnh bơ tán gẩu với nhau bên cửa cạnh đống phân rác ấy! Nhìn ra xa, thấy một cánh đồng lúa vàng rộm, ngạc nhiên không có ai thâu hoạch. Nhìn mỏi mắt chợt thấy một người đàn bà, bỏ gùi trên vai xuống rồi lấy “liềm” gặt một khoảnh ruộng nhỏ xíu chừng rộng hơn thước Tây. Xong, chừng ấy đủ rồi, bỏ vào gùi mang về. Đủ ăn rồi! Tôi thắc mắc chuyện trước mắt thì có một vị sư ở đây lâu năm giải thích:

“ Thủ phạm là do định mệnh thuyết của Bà-la-môn giáo đấy! Bây giờ là đạo Hindu. Họ tin thuyết định mệnh, tin thuyết 4 giai cấp. Giàu nghèo sang hèn gì cũng đã được quy định từ khi vừa mở mắt. Kiếp này cu-li thì kiếp sau cũng cu-li. Kiếp này là thủ-đà-la, chiên-đà-la thì kiếp sau cũng thủ-đà-la, chiên-đà-la thôi. Không thể thay đổi số kiếp mà đấng Phạm Thể tối cao đã giáng nghiệp! Do vậy, ngay chính lúa đã chín mà họ cũng không thèm cất kho, chỉ gặt vừa đủ ăn, sống-an-nhiên-tự-nhiên-như-triết-gia-an-phận-thủ-thường vậy đó! Làm chi nhiều cho mệt; mà cho dù nỗ lực trong nghề nghiệp cũng chẳng giàu có được; chỉ nên bằng lòng biết đủ trong thân phận đói nghèo của mình!”

Chuyện kể trên nhằm minh hoạ cho những ai cam chịu sống theo nghiệp cũ, trôi xuôi theo nghiệp cũ, không chịu tạo tác nghiệp mới để có chánh báo, y báo mới tốt đẹp hơn.

Từ khi nghiệp quyết định tâm thức tái sanh thì nó mang theo tự thân thiện ác tốt xấu cùng tỉ tỉ chúng tử nhiều đời kiếp. Nói dễ hiểu là nếu nghiệp tốt lành thì chúng ta ít tham sân si, có nhiều đức tính, phẩm chất con người. Còn nếu ngược lại, nghiệp xấu ác thì chúng ta nhiều tham sân si và nhiều tất xấu, thói hư, nhiều bản năng thú vật, động vật.

Rộng hơn tí nữa. Con người ngày nay, và ngay chính chúng ta, cũng còn rất nhiều người sống theo nghiệp cũ không chịu tích cực chuyển nghiệp hoặc tái tạo nghiệp mới. Họ sống theo nghiệp cũ nên tâm sân ác thì cứ tàn sát mọi người. Nếu tâm tham vô độ thì cứ vơ vét, quơ quào của cải, tài sản. Nếu tâm không có tính người thì hành động dã man như loài thú dữ. Nếu tâm không có tàm quý thì không có hàng động xấu xa, trái với đạo đức, luân lý nào nà nó không dám làm. Nếu tâm trơ lì cảm xúc, dù thấy cảnh hung ác, bạo tàn nhưng họ vẫn dửng dưng, vô cảm.

Nói gần vấn đề hơn. Khi chúng ta có tham, sân rồi hành động theo tham, sân ấy là chúng ta sống theo nghiệp cũ, tâm cũ. Khi chúng ta làm việc gì đó tuân theo thói quen, cá tính của mình rồi còn biện hộ: “Cái tính tôi nó vậy” là đã sống theo cái nghiệp cũ, cái tâm cũ. Gói gọn rốt ráo trong một câu: Khi nào hành động qua thân, khẩu ý mà “không có chánh niệm, tỉnh giác soi rọi” là chúng ta đã sống theo nghiệp cũ và tâm cũ rồi! Chỗ này thầy giải mã rõ ràng hơn:

“Có người tánh sân nhiều do lưu cữu trong dòng bhavaṅga. Hễ có chuyện gì trái ý nghịch lòng là nóng nảy, bực tức khởi lên (thuận theo cái tánh cũ) rồi hành động qua thân khẩu ý do lực của tánh sân chi phối.

Đấy là trường hợp sống theo nghiệp cũ, tâm cũ. Trái lại, trong trường hợp trên, có người chánh niệm, tỉnh giác ghi nhận trạng thái nóng nảy bực tức (cảm thọ - quán thọ) ấy, nên sân không chi phối người ấy được. Và cho dẫu sân có khởi lên, nhờ chánh niệm, tỉnh giác “tâm sân biết tâm sân (tâm – quán tâm) thì tâm sân cũng tự diêt. Đây là trường hợp không sống theo tâm cũ, nghiệp cũ mà là đang bắt đầu chuyển hoá để sống theo tâm mới, nghiệp mới”.

Đối với hành giả tu tập minh sát - thiền tuệ - lâu năm thì chánh niệm, tỉnh giác quán cái “hiện tiền đang là”  tuy rất khó khăn nhưng nếu thực tập kiên trì thì có thể thành công được sáu, bảy phần mười. Còn người chưa từng quen với thiền tuệ như đã nói thì quả thật là “bất khả”. Tuy nhiên, ta cũng có thể có cách khác. Sống giữa mọi giao tiếp khi biết mình hành động như vậy, như vậy... là do thói quen, do tập khí thì mình hãy dừng lại, dừng lại một lát rồi hãy hành động ngược lại với ý muốn của mình. Dừng lại hoặc hành động ngược lại cũng là một cách để thoát ly tâm cũ, nghiệp cũ không cho tập khí kéo lôi nữa. Vậy là mới. Vậy là mình bắt đầu chuyển hoá để sống, để hành động theo tâm mới, nghiệp mới rồi.

Đến đây chắc có người sẽ hỏi, nghiệp cũ, tâm cũ đâu phải là hoàn toàn xấu ác? Có người khi mở mắt chào đời có chánh báo, y báo tốt, lại ngầm chứa nhiều chủng tử thiện thì tuy họ hành động theo tâm cũ, nghiệp cũ nhưng chúng lại tốt, lành thì sao? Đâu phải cái cũ nào cũng là xấu ác? Đúng vậy! Nếu tâm cũ, nghiệp cũ tốt, lành - thì ta cũng có thể làm cho cái tốt, lành ấy mới hơn, đẹp đẽ hơn, bằng cách dựa theo câu kinh Lời Vàng số 183:

“Vui thay! Điều ác không làm

Vui thay! Việc thiện lại chăm làm hoài

Tự tâm thanh lọc trong ngoài

Ấy là giáo huấn trọn đời Thế Tôn!”

(Sabbapāpassa akaraṇaṃ

kusalassa upasampadā,

Sacittapariyodapanaṃ

etaṃ buddhāna sāsanaṃ).

Phải chăm làm! Việc thiện thì phải chăm làm, làm mãi, làm hoài cho đến chỗ “toàn thiện”. Đức Đại Bồ-Tát của chúng ta cũng đã không thực hành trọn vẹn 30 ba-la-mật, trước khi chứng đạt đạo quả Bồ-Đề đó sao?

Cũng còn có một hành động tối hậu tinh khôi, mới mẻ mà thoát ly khỏi nghiệp ấy là duy tác; đây là hành động của chư vị thánh nhân A-la-hán, khi quý ngài đã mở được 3 cánh cửa Không, Vô tướng, Vô tác (tam giải thoát môn) thì chúng ta không bàn ở đây.

Nói tóm lại, khi còn trong sinh tử luân hồi thì “nghiệp” sao,“tâm”  vậy. “Nghiệp”  sao, “tâm”  sao thì “cảnh” vậy. Thay mới “nghiệp tâm”  thì “cảnh” sẽ mới. Đây chính là cái mới của người tu Phật cần phải nghiêm túc thấu hiểu để chuyển hoá cuộc đời mình. Năm mới mà chúng ta không trang bị trí tuệ để có cái mới này thì mọi cách tu tập, mọi tông hệ thiền, tịnh, luật, mật gì gì đó cũng chỉ còn là danh từ, nhãn hiệu sáo rỗng mà thôi!

Thầy đóng chốt năm cũ đây!

Chào nhau năm mới thì chúng ta phải mới. Đừng sống quá cũ kỹ theo nghiệp cũ, tâm cũ - những cái cũ xấu ác, bản năng - để chư thiên thọ thần hộ pháp họ cười cho! Ngoài ra, năm nay, chúng ta nên học thêm hai cụm từ “cảm ơn”“xin lỗi”. Phải biết nói lời “cảm ơn” khi ai đó giúp mình dù là một việc nhỏ xíu! Đấy là tác phong có văn hoá, là mỹ học đấy các con ạ! Phải biết nói lời “xin lỗi” khi mình đụng chạm đến ai hoặc vô tình làm phiền người khác dù là chuyện nhỏ nhít. Làm được điều ấy là dũng cảm lắm, là biểu hiện nhân cách của một trí thức lớn đấy các con ạ!

Chúc các con năm mới, mới như những nụ, những mầm, những chồi đang chuẩn bị bung lộc, bung hoa... đón nắng ấm xuân dương cùng với những sát-na tâm mới mẻ hiện tiền!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4693)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5003)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4506)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3738)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7545)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4737)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6169)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5321)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12086)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5345)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]