Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu Theo Tánh Của Mỗi Người

18/12/201509:08(Xem: 8238)
Tu Theo Tánh Của Mỗi Người

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Sīlaguṇa-Mahāthera)

NHẶT LÁ RỪNG XƯA
Tủ sách Huyền Không Sơn Thượng

(Phật lịch 2558 – 2015)

Tu Theo Tánh Của Mỗi Người

 

Như đã đề cập ở một bài viết trước, chúng sanh có sáu tánh là tánh tham, tánh sân, tánh si, tánh tầm, tánh tín và tánh trí; chúng đi suốt trong dòng sống (bhavaṅga) của mỗi người. Tuy nhiên, chúng ta xem tánh nào vượt trội thì tạm gọi là tánh ấy, chứ chúng thường trộn lẫn tánh này và tánh khác khó nhìn ra chân tướng.

Trong đời sống tu tập, tôi thường chiêm nghiệm mình và người, nhất là những người tôi quen hoặc những người tu học xung quanh tôi. Suốt mấy mươi năm qua, bây giờ tôi có thể đưa ra một vài tâm tánh đặc biệt, vài nhân vật đặc biệt, muốn chia sẻ đến những người tu học, để ai cũng có thể tự soi chiếu mình, âu cũng là những bài học giác ngộ cho tất cả chúng ta.

Bây giờ tôi xin kể về “hành trạng” của một người, mà theo tôi, đây là trường hợp tánh tầm (Vitakkacarita) cộng với tánh trí (Ñāṇacarita).

• • •

Anh ấy là một nhà thơ khá lớn, một thời là bạn của cố thi sĩ B.G. Nhà thơ của chúng ta sống lãng đãng phong trần, lang thang vô trụ xứ, ăn gì cũng được, ngủ đâu cũng được. Tiếng đàn ghi-ta của anh rất hay; và giọng ngâm thơ thì lạ lùng vô kể. Khi hứng lên, giọng ngâm của anh lê thê buốt giá, nó xúc động đến cả tầng sâu vô thức; nó mang nỗi buồn thiên cổ, nó chuyên chở cả hư vô và cả muôn tình cỏ cây hoa lá, trăng sao và cả cỏ rác bụi bặm nhân gian. Anh như một “hài nhi tóc bạc” sống giữa cuộc đời, rong chơi là chính, không toan tính, không mặc cả, không mưu đồ lợi danh! Quả thật là tuyệt phải không?!

Vào khoảng năm 1879-1980, khi tôi đang ở chùa Huyền Không, Nham Biều, bên sông Bạch Yến, nhà thơ lãng đãng ghé chơi. Vốn quen biết nhau đã lâu nên tôi mời anh ở lại, tạm gác giang hồ, nghỉ ngơi tịnh dưỡng môt thời gian. Thuở ấy, chúng tôi lao động tay chân nương vườn để có cái ăn, thấy việc gì là anh cũng ra tay làm giúp. Chừng mươi hôm sau, anh xin tôi cho anh được cạo đầu xuất gia. Tôi nói:

- Anh tu thì tốt rồi, quý hoá rồi. Nhưng anh tu ở đâu thì được nhưng ở đây thì không được đâu.

Anh cười:

- Tui tu được mà!

- Tôi biết anh đọc rất nhiều kinh sách, sử truyện, nghiên cứu thiền, cả tu thiền nữa; nhưng “cái mệnh của anh là mệnh đi”, có ngồi yên một chỗ được đâu! Muốn tu thì phải làm giới tử, làm công quả, suốt vài ba năm không được đi đâu. Nó “bó chân” khó lắm đó!

Thấy anh cứ nằng nặc đòi tu cho bằng được, tôi bèn đưa ra một “thách thức”:

- Ở kia có cái phòng. Anh chỉ cần ở đấy, đọc kinh, đọc sách, hành thiền, ngủ nghỉ gì tuỳ ý. Cơm ăn hằng ngày có mấy chú mang giúp cho. Nếu anh ở yên đấy được một tuần, tôi sẽ làm lễ cho anh nhập chúng tu học ngay!

- Đồng ý! Sư hứa đó nhé!

- Vâng!

Thế rồi, nhà thơ của chúng ta thua cuộc. Mới ở được ba bốn hôm gì đó, thì anh đã hành lý tay nải bỏ đi lúc nào không ai hay biết. Tôi quen tính khí của anh nên biết anh đi đâu. Có thể anh thèm một vài hơi rượu cho khí nó bốc lên. Có thể anh thèm đám đông, thèm ca hát, thèm ngâm thơ trước một nhóm bạn nào đó, tăng hoặc tục, thi hữu hoặc văn hữu. Cũng có thể anh đang lang thang từ chùa này sang chùa khác, luận bàn triết lý, tư tưởng Đông Tây; hoặc nói về thơ, yếu tính của thơ, sự bất lực và trò chơi của ngôn ngữ, tính mệnh của ngôn ngữ! Đôi khi, anh kể về những tháng ngày ngủ đình, ngủ miếu, ngủ chợ, ngủ chùa, ngủ tại đại học Vạn Hạnh cùng BG. Mà ở đâu, anh cũng được quý thầy hay một số bạn bè nhà thơ yêu mến và đón tiếp.

Bẵng đi một thời gian, tôi nghe tin anh đã xuất gia với một phái thiền tông; và tôi cũng nghe thầy tu hành rất “kịch liệt”. Sở dĩ tôi nói vậy là vì, có vài ba lần gặp thầy ở Sài Gòn, và Huế. Lần thì thầy say sưa nói về pháp môn “biết vọng không theo”. Lần khác thì thầy nói, “cái biết” nó trật rồi! Tại sao vậy? “Cái biết!” Lúc nào cái biết cũng xuất hiện, khi ăn, khi ngủ, khi đại tiêu tiện, khi cử động chân tay, khi đi lui, đi tới. Mệt quá! Nó ù lì ở đó, trong óc! Dường như cái biết ấy nó làm chủ mình, mình nô lệ bởi nó, thoát ra không được! Thế rồi, lần khác nữa, thầy nói, tui bỏ rồi, tui bỏ cái biết ấy rồi, người tui giờ khoẻ re!

Tuy nhiên, tôi biết, trước thầy cũng kẹt, mà sau, thầy cũng kẹt, khó trở về “Bình thường tâm thị đạo” của lão sư Nam Truyền, khó trở lại quê nhà “Thân, thọ, tâm pháp” như thực được! Sư huynh của tôi, thiền sư VM - cố gỡ giúp hai cái kẹt ấy nên có làm tặng thầy một bài kệ:

- Vô minh hà biệt minh,

Ly trần hựu đồng trần;

Bất tri vân hà đạo,

Vi thánh diệc vi nhân.

Rồi đặt luôn cho thầy một biệt danh, hy vọng là đúng “chân dung” như người: Minh Trần Đạo Nhân! Cái tuyệt diệu ở chỗ là 4 chữ sau của 4 cấu thơ hình thành nên minh trần đạo nhân ấy! Sau khi đọc lại bài kệ thơ trên cho tôi nghe, thầy nói: “Tui thấy rồi! Không đi đâu nữa, mà cũng không đến đâu nữa. Tất cả đều đại toàn ở đây và bây giờ!”

Tôi mừng cho thầy nhưng tự trong thâm tâm, tôi vẫn “cố chấp”, vẫn nghĩ: “Chưa đâu! thầy vẫn còn đi đấy! Lang thang vẫn là cái mệnh của thầy mà!” Sau này, gặp thầy vài ba lần nữa, mà cái câu của đức Phật, định nói, mà tôi vẫn quên chưa nói được với thầy: “Không bước tới, không dừng lại, Như Lai ra khỏi bộc lưu!”

Tính, mệnh của thầy là “dòng sông”, còn trôi, còn chảy; đúng như bài thơ “Chén trà nhớ những dòng sông” của thầy. Và thuở đó, tôi vẫn nhớ thầy, thương thầy nên có làm một bài thơ đáp lễ, có mây câu đầu:

- Thương anh đội mộng lên đàng

Để ta lặng lẽ trăng vàng non quê

Mải đi, bóng nhỏ không về

Kiếp như mây bạc còn mê dặm hồng

“Chén trà nhớ những dòng sông”

Chân cầu ở lại, thu phong lạnh lùng

Dẫu sương khói vẫn vô cùng

Dẫu quan cách vẫn tình chung một trời...

Đại khái là vậy. Sau này nhiều lần gặp thầy trong hình tướng đầu tròn, áo vuông. Thầy dịch kệ thiền của chư tổ thiền tông. Thầy viết những tập sách nhỏ. Và đi đâu đó, hội chúng nào đó, thầy dạy thiền cho người ta. Đệ tử của thầy nơi này và nơi khác đủ sức giúp thầy ăn cơm gạo lức muối mè. Nhưng lang thang vẫn là cái mệnh. Không ở đâu lâu được. Có lần thầy nói, sau này, sư cho tui một cái cốc, chắc tui về đây ở thôi. “Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự” mà! Rồi thầy cười ha ha! Tuy nhiên, tôi cũng biết, đó chỉ là “cái hẹn của mây gió phiêu bồng” mải rong chơi thiên nhai hải giác! Sau này thầy mất tại Hà Nội - thì cũng đang trên đường!

• • •

Trở lại vấn đề tâm tánh. Nếu thuần là tánh tầm thì xấu. Tánh tầm là tâm luôn lao xao phóng dật, luôn tìm kiếm từ đối tượng này sang đối tượng khác không ngừng nghỉ. Đêm nằm, tâm trí cũng cứ chạy nhảy không yên. Tâm viên, ý mã đích thực là cái tánh tầm này, đồng thời nó hay ức đoán, phê phán, đánh giá nọ kia. Thường không nỗ lực một hướng đi trọn vẹn, một mục đích trọn vẹn; không có việc gì chu đáo, trọn vẹn. Dễ hoà mình với đám đông, thân thiện với đám đông, đôi khi không có đám đông thì buồn, không chịu được.

Tuy nhiên, “nhà thơ và vị tỳ-kheo” của chúng ta, tánh tầm này có cộng với tánh trí  nên dù lao xao, không ở yên, luôn tìm kiếm, luôn ra đi nhưng vẫn nằm trong quỹ đạo hướng thiện, chơn chánh. Và giải thoát của thầy là không có chân trời nào cả, một cõi nào cả; và ngay chính thế gian bụi bặm ngũ trược này nó vẫn là “ly trần hựu đồng trần!” kia mà!

Đấy là giải mã của tôi, có lẽ là không lệch lạc bao nhiêu về “chân dung” một người đã ra đi, mà hồn sương, hồn khói, hồn thơ, hồn thiền còn dập dờn, lãng tử phiêu bồng ở đâu đó nơi những chân cầu, nơi những dòng sông, nơi những quán trọ... cùng với những tinh hà nhật nguyệt... Mà vấn đề “Tử sinh đại sự” đã giải quyết xong chưa thì tôi vẫn không dám trả lời, sợ tụt lưỡi, vì người mê nói giác thì cái giác ấy cũng là mê vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2015(Xem: 11716)
Tâm dục được xếp hạng trên tất các sắc tướng, gọi là Sắc Dục, mà mê đắm sắc đẹp đưa đến dâm dục là điều cốt yếu của mọi vấn đề trên cõi Ta Bà. Tham dâm dục thôi thúc trong lòng khiến con người phải hành động để được thoả mãn ham muốn. Khi cái luồng chân khí ái dục này dâng lên thì si ái tình, khi đi xuống thì tham nhục dục. Mà ái có nghĩa là yêu thương thuộc tình cảm với cảm giác cao thượng. Dục là sự si mê, thèm khát thể xác. Khi dâng lên khi hạ xuống bất thường thì bị tẫu hỏa nhập ma, thất tình lục dục, đưa đến hành động phi luân, phạm pháp, vô đạo tai hại khôn lường cho mình cho người. Dục gồm có lục dục hay ngũ dục. Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần; mắt thích nhìn những sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh êm dịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm những vị ngon, thân thích đụng chạm êm ái, ý thích nghĩ tới tham si. Ngũ dục là năm thứ ham muốn của người đời không dễ gì loại bỏ. Kinh Phật nói về Ác Dục, Niệm Dục: Chư hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục th
20/09/2015(Xem: 8304)
Hôm nay là ngày rằm, từ sáng sớm bà chủ đã ngỏ lời: “Hây, tối nay kính mời khách thưởng trà ngắm trăng với chúng tôi trong vườn nhà”. Khi ráng chiều vừa tắt, bà chủ đưa cho khách bộ Yukata (Kymono mặc mùa hè), một đôi tất trắng, một đôi guốc xỏ ngón và một cái hoa vải màu hồng nâu. Thấy khách lúng túng, hiểu ý, bà chủ ân cần hướng dẫn khách sử dụng từng loại. Bà chủ chia sẻ: “Mặc Yukata khó nhất và đẹp nhất là cái đai quanh thắt lưng”. Miệng nói, tay làm, bà giúp khách hoàn thiện cái đai này. Bà lại hồn hậu: “Búi tóc kiểu Nhật cũng không là việc dễ”, rồi đôi tay bà chủ thoăn thoắt, chỉ mươi phút mái tóc của khách đã được búi cao lại còn giắt thêm cái hoa vải màu hồng nâu sau gáy. Khách nghĩ, mình đã tươm tất lắm rồi, thì nghe bà chủ nhắc khéo: “Mặc Yukata đôi chân phụ nữ phải được bọc trong đôi vớ trắng và bước đi với đôi guốc xỏ ngón”. Nghe lời, khách mang vớ, mang guốc rồi thử bước đi; xong, khách thầm nhủ “mang đôi guốc này mà không té là điều kỳ diệuJ”.
19/09/2015(Xem: 9258)
Đối với người Phật tử, dù ở bất cứ phương trời nào, không phải chỉ mùa Vu Lan mới là thời điểm để người con Phật thể hiện lòng báo đức tri ân. Ân Chư Phật, ân Thầy Tổ, ân cha mẹ giáo dường, ân đàn na thí thí, ân xã hội, ân chúng sanh …. mà ân kia, đức đó phải luôn phát nguyện bằng thiện tâm: “Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài” Theo tinh thần trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm thì muôn người, muôn loài đều thầm lặng vì nhau mà sinh diệt. Cái này vì cái kia mà hiện hữu, cái này ra đi để cái kia tồn tại. Như lá rụng mà thực chẳng diệt, vì lá lại thành đất nuôi cây. Như mây tụ lại mà thực chẳng tan, vì mây chỉ chuyển hóa thành mưa tươi mát, tắm đẫm cỏ nội hoa ngàn ….
18/09/2015(Xem: 8853)
Được sự đồng ý của tác giả, Cư sĩ Diệu Nhung, Cư sĩ Tâm Thành và các Cư sĩ khác hùn phước ấn tống và gửi tặng sách GIA TÀI CỦA NGƯỜI TỈNH THỨC (Thực tập Kham nhẫn) phiên bản tiếng Việt cho các đối tượng sau đây: 1. Đọc giả người Việt đang sinh sống và làm việc trong khu vực VIỆT NAM và CHÂU Á. 2. Các tu sĩ Phật giáo người Việt không phân biệt tông phái. 3. Các cư sĩ người Việt đang nghiên cứu và thực tập Phật giá
13/09/2015(Xem: 7766)
Giáo dục là gì? Hiện nay khó mà định nghĩa dứt khoát; có rất nhiều định nghĩa khác nhau, ví dụ: Như trong cuốn "The Educator’s encyclopedia" của ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và M.M. Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ Phương Đông đến thái độ Phương Tây và trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: "Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người". (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản trẻ năm 1971).
12/09/2015(Xem: 7247)
Những ngôi Chùa nổi tiếng ở VN
12/09/2015(Xem: 16778)
Nếu có người nào đó bảo rằng: “Tại sao Thầy viết nhiều và không chịu nghỉ ngơi, hãy để dồn viết một tác phẩm có giá trị vẫn hay hơn là những bài tạp ghi như vậy“ thì tôi sẽ trả lời rằng: “Nếu viết được thì cứ viết, chứ chờ viết hay mới viết thì biết bao giờ mới viết được một bài. Có nhiều người chờ cả đời không viết, đến khi muốn viết thì không còn sức khỏe nữa“. Quả cuộc đời nầy nó có nhiều cái khó như thế, mà chúng ta thì không tự làm chủ thời gian cũng như sức khỏe của mình được. Do vậy tôi chủ trương rằng: “Cái gì làm được trong ngày hôm nay thì hãy nên làm, chứ chờ đến ngày mai thì nhiều khi ngày mai ấy không còn ở lại với mình nữa. Dầu ta có già, có sống lâu bao nhiêu năm trên thế gian nầy đi nữa, rồi một ngày nào đó chúng ta cũng phải ra đi, mà thời gian thì chẳng thương tiếc gì ta, dầu ta có cố níu kéo nó lại. Ngay cả những người thân trong gia đình, mình cứ ngỡ rằng họ luôn ở gần mình và họ thuộc về một phần của cuộc sống mình, nhưng điều ấy ta đã lầm. Cuối cùng rồi chẳng có
12/09/2015(Xem: 9207)
Phật Giáo Việt Nam và vấn đề bảo vệ mội trường
10/09/2015(Xem: 10421)
Mẹ tôi năm nay 83 tuổi, mẹ đã bị bệnh mất trí nhớ (dementia) trong vòng năm năm nay. Bốn năm trước đây, khi tôi gặp mẹ, cánh cửa của căn chung cư mẹ tôi ở đã mở toang, và mẹ tôi đã đi lang thang ra ngoài đường. Bệnh mất trí nhớ của mẹ tôi phát ra rất nhanh, nhanh đến nỗi mẹ đã không còn nhớ đến ai cả.
06/09/2015(Xem: 9323)
Các nhà sư thuyết giảng cho người thế tục là chuyện bình thường, thế nhưng nếu một nhà sư đứng ra thuyết giảng cho các nhà sư khác thì quả là một chuyện hiếm hoi khi gặp. Dưới đây là một bài nói chuyện của nhà sư Thanissaro Bhikkhu với các bạn đồng tu trong một ngôi chùa mà nhà sư này có ý gọi chung các ngôi chùa là "bệnh viện của Đức Phật". Bài nói chuyện được trích dẫn từ một tập sách mang tựa "Thiền định 1: Bốn mươi bài thuyết giảng Đạo Pháp" (Meditation 1: Forty Dhamma Talks, Access to Insight, 2003), gom góp các bài thuyết giảng của ông. Thanissaro Bhikkhu là một nhà sư người Mỹ tu tập theo truyền thống "Tu Trong Rừng" của Phật Giáo Theravada, một nhà sư thật đáng kính, uyên bác và tích cực, vô cùng xứng đáng để hàn huyên với các nhà sư và thuyết giảng cho tất cả chúng ta nghe.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]