Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chân tâm và tâm lỗi lầm

14/10/201512:54(Xem: 6082)
Chân tâm và tâm lỗi lầm


ducphatthichca-2

CHÂN TÂM & TÂM LỖI LẦM



Đức Phật dạy: “Nhứt thiết duy tâm tạo” tất cả đều do tâm tạo, “...Duy ngã độc tôn” “cái ta” là tối cao và quan trọng nhất, quyết định tất cả, thành Thánh thành Phật, hay thành ma thành quỷ, lên thiên đàng vào địa ngục cũng do “cái ta”. Đối với “chân tâm” không có “cái ta” là “nhất minh tinh, lục sanh hòa hợp” tức lục căn: thấy, nghe, biết...rõ ràng, mà không phân biệt, dính mắc với lục trần, đó là “tâm” của người chân tu, giải thoát. Nhưng đối với “vọng tâm” “tâm lỗi lầm” của thế gian thì trong Tương Ưng Bộ Kinh, Phật dạy có 4 hạng người:

1. Hạng người thứ nhất: Không ai hỏi về cái tốt của mình mà cứ nói, huống là có hỏi. 
 
2. Hạng người thứ hai: Có ai hỏi đến cái tốt của người cũng chỉ nói bập bẹ, nói ngập ngừng, huống là không hỏi (tức chẳng nói). 
3. Hạng người thứ ba: Không ai hỏi đến cái xấu của người mà cứ nói, huống là có hỏi.  
4. Hạng người thứ tư: Có ai hỏi đến cái xấu của mình thì che giấu, huống là không hỏi (tức chẳng bao giờ nói).

Bốn hạng người trên là do “vọng tâm” với người lớn “bản ngã” sinh ra, đó là tâm không biết tu, “tâm lỗi lầm”, “thấy lỗi người, che giấu lỗi mình, khoe khoang cái hay của mình, che giấu cái hay của người...”

Muốn là người “chân tu” phải “quán chiếu nội tâm” soi sáng lại chính tâm mình, để sửa lại cái “tâm tội lỗi” nầy vậy, đó là “tu theo chánh đạo”, “ẩn ác dương thiện”, “chỉ thấy điều hay, không tìm điều dở”, thường hành pháp lạy Phật sám hối, là đang tu chuyển ba nghiệp thân, khẩu, ý một cách tuyêt hảo, vừa rèn luyện thân tâm, hạ được ngã chấp, vừa chuyển hóa được nghiệp lực, xem mọi người là Phật sẽ thành, để luôn sống thân thiện, khiêm cung, nghĩ mình còn yếu, không kiêu mạn, tự hào, để cố gắng tu tập hoàn thiện vươn lên, như vậy sẽ không còn nằm trong “bốn hạng người” nói trên. Còn nếu “hướng ngoại tìm cầu” là “tu theo ngoại đạo” lúc đó “tâm lỗi lầm” của “bốn hạng người” trên, sẽ dễ dàng phạm tội, đi “rêu rao lỗi tứ chúng”, cao ngạo, ‘mục hạ vô nhân’, nghĩ ta là Thánh, mọi suy nghĩ, lời nói việc làm hoàn toàn đều đúng, bắt mọi người phải thần phục, ai bất phục không nghe theo liền bị “chụp mũ”, “phủ đầu”, “quy tội” tha hồ kiêu mạn, tạo nghiệp, gây oan trái, gieo khổ đau. Lục Tổ dạy: “Người đời nếu thật tu hành, đừng thấy lỗi thế gian. Các việc muốn không ngại, thường phải thấy lỗi mình, như thế mới hợp với đạo”.

Người “lớn cái ta” sẽ luôn luôn sống bất an, vì phải thường lo toan, tính toán, để đối phó với tất cả, hầu chứng tỏ “ta là quan trọng nhất”, “ta hoàn toàn đúng” mọi người phải phục tùng ta, sống không thật, nên sợ người lật tẩy, sẵn sàng triệt hạ người để bảo vệ ta, đưa lỗi lầm, cái xấu của người ra để hòng che giấu lỗi lầm, cái xấu của ta, tạo ra vô vàn hệ lụy, đọa đày trong muôn kiếp nhân sinh.

Người thật tâm tu hành, thì phải luôn “quán chiếu tự tâm” thấy lỗi lầm của mình mà tự sửa, để mà ăn năn sám hối, thì lỗi lầm cũ sẽ hóa giải, lỗi lầm mới không có cơ hội gieo tạo, phát triển, thường xét nét lỗi lầm của mình như thế, đâu còn thời gian để mà dòm ngó lỗi lầm của người, từ đó ta sẽ dễ dàng sửa chữa hoàn thiện được chính ta và không bị phiền não thế gian chi phối, đúng với tinh thần của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã dạy “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” có nghĩa xem xét lại chính mình là phận sự chính, không phải từ nơi khác mà được, Tìm lại mình, biết rõ được mình là trên hết, như vậy không phải là ta đang sống với “chân tâm” và “tu tâm” đúng hướng, để có được an lạc, giải thoát đấy ư! Đâu cần phải tốn công hao sức, hằng ngày phải mãi miết chạy theo bên ngoài để tìm cầu những cái không thật, vô thường, tạm bợ, với “tâm lỗi lầm” nếu có chăng, cũng chỉ là “ma nghiệp” rốt cuộc trắng tay, khổ lụy mà thôi, để phải mãi chịu trầm luân trong sinh tử luân hồi.

Tu là phải biết sống lại với “chân tâm” không phân biệt và đắm nhiễm với lục trần, tuệ tri rõ ràng mọi vật, làm việc trong an tịnh và sáng suốt mới là Phật sự, trở về với “niết bàn tịch tịch”, muốn được như vậy, trước tiên ta phải diệt “bản ngã” để hết “tâm lỗi lầm”, không có “ngã chấp” chi phối, thì lúc đó làm việc gì cũng có kết quả tốt, ta mới sống an lạc tu tập, tạo nhiều công đức, thoải mái trên lộ trình, giác ngộ, giải thoát, lợi ích quần sanh.  

“Tâm chơn” mọi cảnh đều chơn
“Lỗi lầm tâm” ấy oán hờn lụy đau

An Lạc thất, Adelaide Nam Úc những ngày tịnh dưỡng

 Thích Viên Thành
 (Hạnh Trung)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/05/2018(Xem: 7783)
1- Mỗi lần bị anh Hưng ăn hiếp, nghĩ mình là em, thân nhỏ bé ốm yếu không thể chống cự lại cái ông anh to đùng và mập thù lù kia, ức quá nên Thịnh chỉ còn biết nước… khóc. Khóc thật là to và “đã”. Khóc xong thì thấy nhẹ hẳn cả người, không còn thấy bực tức nữa.
01/05/2018(Xem: 4803)
Tối hôm qua là một tối đáng nhớ trong đời. Một buổi tối thật vui, đầy tiếng cười và cả nước mắt. Chú Thạc đột ngột trở về từ một phương trời xa xôi cách nửa vòng trái đất, sau hơn ba mươi năm sống tha hương nơi đất khách quê người. Chú rời xa quê hương khi Thuý Loan còn là một hạt bụi nhỏ nhoi bay lơ lững ở một khoảng không mênh mông nào đó. Hai chú cháu chỉ biết mặt nhau qua mấy tấm ảnh kèm theo trong những lá thư đầy tình thương nhớ mà thi thoảng chú gửi về, cũng như bố mẹ gửi đi…
01/05/2018(Xem: 13352)
Thông Báo Hành Hương Phật Tích Ấn Độ (2018)
29/04/2018(Xem: 11159)
Sông Hằng là con sông thiêng liêng nhất được tôn thờ như một nữ thần hoặc như là một bà mẹ truyền ban sức sống ở Ấn Độ và được xem là nguyên mẫu của tất cả dòng nước thiêng liêng trên thế giới. Từ những thời đại sớm nhất, dọc bờ sông đã có hàng triệu những người không thể đếm được đến đây để tắm, cầu nguyện, uống nước thánh và quăng tro người chết.
29/04/2018(Xem: 8358)
Sư Bà Hải Triều Âm sanh trưởng tại tỉnh Hà Đồng –Hà nội năm 1920. Sư bà là một trong số ít các bậc nữ lưu sống trong thời kỳ Pháp thuộc, có văn bằng Diplome D’étude Primaire Supérieur, trở thành một cô gíao đoan trang thông tuệ mẫu mực, lấy việc dạy học làm sự nghiệp cho đời mình. Sư Bà cũng là một trong những vị sáng lập và phát triển nhiều gia đình Phật Tử ở Hà Nội Hải Phòng mà thời bấy giờ thường gọi là gia đình Phật Hóa Phổ. Qua một dịp nghe được sư cụ Thích Tuệ Nhuận giảng kinh Lăng Nghiêm ở chùa Quán Xứ, đến phẩm Quán Âm Quảng Trần và chương Đại Thế Chí Niệm Phật, cô giáo Catallan Nguyễn Thị Ni hốt nhiên lãnh hội được sự vi diệu của Phật Pháp và quy y với Đức Pháp Chủ Thích Mật Ứng, được ngài ban cho pháp danh Hải Triều Âm. Sư Bà xuất gia năm 1949 tức là năm Sư Bà 29 tuổi, với Hòa Thượng Pháp Chủ Thích Đức Nhuận tại chùa Đồng Đắc.
29/04/2018(Xem: 7296)
Đức Phật dạy có nhiều cách bố thí khác nhau như: Pháp thí: bố thí Phật pháp ý nghĩa cao thượng giải thoát. Tài thí: bố thí tiền bạc. Vật thí: bố thí vật chất. Vô úy thí: bố thí sự không sợ hãi. Nhan thí: bố thí nụ cười. Ngôn thí: bố thí ái ngữ. Tâm thí: bố thí tâm hòa ái, lòng biết ơn. Nhãn thí: bố thí ánh mắt yêu thương hiền từ. Thân thí: bố thí hành động nhân ái, thân thế. Phòng thí: bố thí phòng ốc chỗ ở giường nằm. Dược thí: bố thí thuốc….
29/04/2018(Xem: 6941)
Hải âu là tên một loài chim màu xám trắng xinh xắn sống ven sông biển. Khi mặt trời vừa mọc, tiếng sóng nước gợn lăn tăn hòa lẫn âm thanh kinh kệ ngâm nga vang rền từ các đền tháp, thì vô số chim trời hải âu từ đâu đó bắt đầu xuất hiện trên Sông Hằng, thành phố Ba-la-nại, để múa lượn mừng ngày nắng mới và dùng điểm tâm thực phẩm do các khách hành hương bố thí.
29/04/2018(Xem: 8493)
Bồ-đề-đạo-tràng, nơi nổi tiếng với Tháp Đại Giác – Đức Thích Ca Mâu Ni ngồi thiền giác ngộ, dọc bên bờ kia sông Ni-liên vào những ngày đầu mưa xuân, cuối đông tháng 12 cũng là mùa hoa cải vàng rực nở khắp cánh đồng.
29/04/2018(Xem: 7257)
Đệ tử của Đức Phật luôn gồm đủ bốn chúng xuất gia và tại gia: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Nam cư sĩ và Nữ cư sĩ. Mỗi chúng đều có vai trò quan trọng nhất định trong việc lợi mình, lợi người và duy hoằng Phật Pháp tại nhân gian. Việc hoằng Pháp lợi sanh nơi xứ người xưa nay phần chính là chư Tỳ kheo. Bên cạnh đócó nhiều Tỳ kheo ni và Nữ cư sĩ cũng đã đóng góp rất lớn. Nhiều tấm gương sáng của Nữ đệ tử Phật đã được ghi lại mà nữ giới hậu học ngày nay cần nên soi chiếu.
27/04/2018(Xem: 6239)
Ra Đi và Trở Về - Thích Tâm Tôn, Ra đi và trở về là hai mệnh đề rất rộng trong nhiều phạm trù của cuộc sống. Có thể hiều theo ý nghĩa chu kỳ hai chiều vận hành đến và đi hiện hữu trong phạm trù tuần hoàn thời gian, hay lẽ phân định khoảng cách gần- xa hai hướng trong phạm trù không gian hữu hạn, và có thể là lẽ tất nhiên phải trải qua của cả một đời người bởi hai điều sống- chết sẽ đi qua theo qui luật vô thường…. Nhưng có lẽ hơn hết, hiểu theo cách rất giản dị của nhà Thiền về ý nghĩa cuộc sống chính là tìm hiểu và thấy được của trải nghiệm, hay khám phá và Tuệ tri các pháp trong sự hiện hữu như chính là. Nếu ra đi là tìm kiếm, thì trở về chính là thấy được.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]