Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Milarepa Hướng Dẫn Một Thanh Niên Giác Ngộ Chân Tâm

03/10/201508:20(Xem: 7450)
Milarepa Hướng Dẫn Một Thanh Niên Giác Ngộ Chân Tâm

Milarepa Hướng Dẫn Một Thanh Niên Giác Ngộ Chân Tâm

Geshe Ngawang Dhargyey
dựa vào bài ghi chép của Alexander Berzin
Pauline Yeats hiệu đính tháng Sáu, 2008
từ bài thông dịch của Sharpa Rinpoche
Dharamsala, Ấn Độ, 1974
Lozang Ngodrub dịch; Mai Tuyết Ánh hiệu đính

www.berzinarchives.com

 

Một ngày nọ, khi Milarepa đang ở trong hang động một mình thì hai vị khách tìm đến hỏi han.

- Ông ở một mình à? Ông không thấy cô đơn sao?

- Tôi luôn luôn sống với một người nào đó, không bao giờ đơn độc. Ngài trả lời.

- Nhưng ông sống với ai? Người trẻ tuổi hơn trong hai người hỏi ngài.

- Với bồ đề tâm.

-  Hắn đang ở đâu?

- Trong căn nhà ý thức của tôi.

- Đó là loại nhà gì vậy? Người khách lớn tuổi hơn thắc mắc.

- Đó là thân thể của tôi.

Người đàn ông tưởng Milarepa đang chế nhạo mình. Ông ta nói với người bạn trẻ rằng, “Chúng ta hãy rời khỏi nơi này, ở đây chỉ tốn thì giờ, vì ông ta chỉ nói mỉa mai.”. Người đàn ông trẻ bảo rằng, “Không đâu, có lẽ chúng ta có thể học hỏi được điều gì ở đây.”. Rồi anh ta lại quay về phía Milarepa.

- Có phải ông muốn nói ý thức là tâm và thân thể là nhà không?

- Đúng, đó chính là điều tôi muốn nói. Milarepa trả lời.

- Trong một căn nhà bình thường thì nhiều người có thể sống ở trong đó, nhưng có bao nhiêu tâm thức có thể trú ngụ trong một thân thể?

- Thông thường thì chỉ có một tâm thức thôi, nhưng tối nay, trong thời thiền, các ông hãy tìm kiếm nhiều tâm thức hơn trong thân thể của mình.

Milarepa nói như thế và các vị khách đồng ý, trở về nhà của họ. Tối hôm đó, người đàn ông trẻ hơn trong số hai người đã hành thiền và sáng sớm ngày hôm sau trở lại tìm Milarepa.

- Bổn sư (guru) ơi! Tối qua, con đã hành thiền và như ngài nói, chỉ có một tâm thức thôi, nhưng có điều kỳ lạ là.... con không thể mô tả hình thù, màu sắc hay bất cứ điều gì về tâm thức này. Nếu con chạy theo nó thì không thể bắt được nó. Nếu con muốn giết nó thì nó không chết. Con càng chạy nhanh thì nó càng chạy nhanh hơn con. Không thể nào tìm ra nó được. Khi tưởng tượng là mình đã bắt được nó thì con không thể dẫm lên nó. Nếu con cố giữ nó ở một chỗ thì nó không chịu ở yên. Nếu con buông xả thì nó không di chuyển. Nếu con cố gom tụ nó lại thì nó không chịu tụ họp. Nếu cố nhận ra bản tánh của nó thì nó không chịu cho con thấy. Vì vậy nên con rất bối rối, không hiểu nó là gì. Con không biết bản tánh của nó, nhưng không thể chối bỏ sự có mặt của nó. Xin hãy ban cho con sự chỉ dẫn về tâm.                                                                                                                                                                                      
- Đừng mong ta nếm vị ngọt của đường giùm con! Milarepa nói. Hương vị của đường nâu không thể thấy bằng mắt, cũng không thể nghe bằng tai. Con phải hành thiền và tự mình tìm ra nó. Hãy nhớ rằng tâm không phải như ai đó mô tả. Đó chỉ là những manh mối thiển cận. Không thể nào mô tả được tâm. Với những manh mối con có được từ người khác, hãy tự mình quán sát nó. Con chỉ có thể thấy nó bằng nhận thức của riêng mình.                                                                                                                                                                                                                          
Người thanh niên khẩn cầu thêm chỉ giáo.

- Điều này vô dụng. Milarepa nói. Hãy về nhà rồi ngày mai trở lại đây, nói cho ta biết màu sắc và hình dáng của tâm con, và nó ở trong đầu hay trong đầu ngón chân của con.

Vào rạng sáng ngày hôm sau, người thanh niên quay trở lại.

- Con đã quán xét tâm mình chưa? Milarepa hỏi.

- Dạ có. Người thanh niên trầm tư. Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sáng và trong suốt. Màu sắc và hình thù không thể mô tả nó, nhận thức tâm bằng màu sắc và hình thù là điều bất khả dĩ. Tâm thấy được sắc tướng bằng cách dùng các cửa giác quan, chẳng hạn như mắt. Bằng các cửa giác quan, chẳng hạn như tai, tâm nghe được âm thanh. Bằng các cửa giác quan, chẳng hạn như mũi, tâm ngửi được mùi hương. Tâm nếm được vị bằng lưỡi. Tâm đi lại bằng cách sử dụng đôi chân. Chính tâm là điều khuấy động tất cả mọi thứ. Chính tâm nói nhảm nhí. Chính tâm tạo ra sự bất đồng ý kiến. Chính tâm đem lại kết quả.

- Con đã có thể quán sát khía cạnh thông thường của tâm. Milarepa nói với người thanh niên. Dựa vào tâm thông thường này mà chúng ta tích lũy nghiệp lực tiêu cực và trôi lăn trong luân hồi. Con đã hiểu tâm thông thường một cách đầy đủ. Bây giờ, với chứng ngộ này, nếu con muốn ta dẫn con vào Thành Thị Giải Thoát thì ta sẽ giúp con.

Thế là người đệ tử nhận Milarepa làm Thầy. Nhiều ngày sau đó, Milarepa hỏi tên của người thanh niên này. Tên của anh là Upasaka Sanggyay-kyab, chỉ mới mười sáu tuổi. Rồi Milarepa ban cho vị đệ tử mới giáo huấn đầu tiên về quy y.

- Bắt đầu từ tối hôm nay trở đi, đừng bao giờ phá vỡ mối liên hệ chặt chẽ của việc quy y Tam Bảo. Tối nay, con hãy thiền quán xem có phải là tâm bảo hộ và giúp ích cho con, hay thân thể làm việc này.

Ngày hôm sau, người đệ tử trình với Thầy rằng có lẽ thân không làm điều này.

Milarepa đã khéo léo hướng dẫn đệ tử thiền quán về Không tướng và vô ngã, nhưng không hề đề cập đến Không tướng, hay thổi phồng điều đó. Chỉ sau khi người đệ tử đã hành thiền và có được kinh nghiệm rồi thì ngài mới nói đó là Không tướng, và việc không cho biết trước là một phương tiện hữu hiệu. Khi bị chất vấn rằng thân hay tâm bảo hộ mình, người ta bắt buộc sẽ phải quán sát một cách sâu xa. Một người có thể khỏe mạnh về mặt thể chất, nhưng có thể bối rối và phiền não về mặt tinh thần. Chính tâm bảo hộ ta trong đời này và những đời sau.

Đây là cách mà Milarepa đã giảng dạy và dẫn dắt người khác đến chân tâm, bằng cách thiền quán về vô ngã.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4984)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5215)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 7998)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6139)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5620)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4256)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9161)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5721)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7030)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5741)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]