Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mối Quan Hệ Với Một Vị Thầy Tâm Linh Trong Hai Kiếp Sống

03/10/201508:16(Xem: 8181)
Mối Quan Hệ Với Một Vị Thầy Tâm Linh Trong Hai Kiếp Sống

Mối Quan Hệ Với Một Vị Thầy Tâm Linh Trong Hai Kiếp Sống

Alexander Berzin, tháng Hai, 2002
 Lozang Ngodrub dịch; Chân Thông Tri hiệu đính

www.berzinarchives.com

 

Mối quan hệ sâu đậm với một vị thầy tâm linh có thể là sự nối kết thăng hoa và quan trọng nhất trong một đời người. Nó cũng có thể là nguồn gốc của sự lừa dối bản thân, đau đớn và tuyệt vọng tinh thần. Tất cả đều dựa vào việc chủ động tạo ra một quan hệ lành mạnh. Điều này lại tùy thuộc vào một thái độ thực tiễn về trình độ của chính mình và vị thầy, về mục đích, động lực và ranh giới của mối quan hệ.

Tôi đã viết cuốn sách Liên Hệ Với Một Vị Thầy Tâm Linh: Xây Dựng Mối Quan Hệ Lành Mạnh (Ithaca: Snow Lion, 2000; bản in lại: Thầy Thông Tuệ, Trò Thông Tuệ: Tiếp Cận Của Người Tây Tạng Về Mối Quan Hệ Lành Mạnh. Ithaca: Snow Lion, 2010), chủ yếu là vì mối quan hệ với các vị thầy chánh của tôi như Tsenzhab Serkong Rinpoche, Đức Dalai Lama, Geshe Ngawang Dhargyey, đã mang lại cho tôi nhiều lợi lạc rất đáng kể, và vì trong những chuyến hoằng pháp trên thế giới, tôi thấy buồn là đã gặp rất nhiều người đi tìm đời sống tâm linh, nhưng lại có những kinh nghiệm không mấy tốt đẹp.                                

Nhiều người bị lạm dụng về tình dục, tiền bạc hay quyền lực và tự nhận mình là nạn nhân vô tội. Sau khi đã đổ hết tội cho những vị thầy lạm dụng học trò, họ lánh xa tất cả các vị thầy tâm linh, và đôi khi còn lìa bỏ cả con đường tâm linh. Một số khác thì sống trong sự phủ nhận về quan hệ không lành mạnh của mình và cảm thấy “lòng sùng mộ đạo sư” đúng đắn không chỉ hợp lý, mà còn thần thánh hóa mọi hành vi của vị thầy, dù điều này có thể tạo ra bao nhiêu sự tổn thương theo tiêu chuẩn thông thường. Cả hai thái cực đều khiến cho người đệ tử gặp trở ngại để tiếp nhận đầy đủ lợi lạc từ mối quan hệ thầy trò lành mạnh.

Trong trường hợp đệ tử là người Tây phương và vị thầy là người Tây Tạng, một trong những nguồn gốc của vấn đề là sự hiểu lầm về văn hóa, cộng thêm những kỳ vọng không thực tế là người kia sẽ hành động theo chuẩn mực văn hóa của mình. Một nguồn gốc của sự nhầm lẫn khác là lấy sự trình bày về chuẩn mực quan hệ thầy trò trong Kinh điển ra khỏi bối cảnh chính gốc, suy diễn nó theo nghĩa đen và nhầm lẫn ý nghĩa của các thuật ngữ chuyên môn, thường là do việc dịch thuật sai lầm.

Ví dụ như bản văn lam-rim (trình tự đường tu giác ngộ) trình bày quan hệ thầy trò như “cội nguồn của đường tu”, và bàn luận về điều này như chủ đề chánh đầu tiên. Tuy nhiên, điểm quan trọng trong phép ẩn dụ là cây hút chất dinh dưỡng từ rễ, chứ không phải nó mọc từ rễ. Cây thì mọc từ hạt giống, và ngài Tông Khách Ba (Tsongkhapa) không gọi mối quan hệ thầy trò là “hạt giống của đường tu”. Dù sao đi nữa, thính chúng chính gốc của lam-rim không phải là những hành giả sơ cơ. Họ là các vị Tăng Ni tụ họp lại để thọ nhận một lễ quán đảnh Mật điển, và để chuẩn bị cho việc này, chư vị cần phải ôn lại những giáo huấn trong Kinh điển. Đối với những hành giả như vậy, những người trước đó đã dấn thân vào đường tu Phật pháp bằng việc tu học và hành trì thì mối quan hệ lành mạnh với vị thầy tâm linh là nguồn cảm hứng để duy trì đường tu trọn vẹn, đưa đến giác ngộ. Chủ ý ở đây không bao giờ ngụ ý là những người mới tu tập ở các trung tâm Phật giáo Tây phương cần phải bắt đầu bằng cách xem các vị thầy tâm linh ở đó như các vị Phật.

Trong trường hợp của tôi, mối quan hệ sâu đậm nhất mà tôi có được với một vị thầy trải qua hai kiếp sống của ngài. Tôi đã trải qua chín năm làm đệ tử, thông dịch viên, thơ ký tiếng Anh, và giám đốc du lịch ngoại quốc cho Tsenzhab Serkong Rinpoche, cố Đạo Sư Đối Tác Tranh Luận và Trợ Giáo của Đức Dalai Lama. Rinpoche viên tịch năm 1983, tái sanh đúng chín tháng sau và đã được nhận diện, rồi trở về Dharamsala lúc bốn tuổi. Cả ngài và tôi đều tái khẳng định quan hệ sâu đậm giữa hai người khi chúng tôi gặp lại nhau vài tháng sau. Khi một thị giả hỏi ngài có biết tôi là ai không, vị tulku (lama tái sanh) trẻ đã trả lời rằng, “Đừng có ngốc. Dĩ nhiên ta biết ông ấy là ai.” Kể từ đó, Rinpoche đã xem tôi như một thành viên gần gũi trong gia đình tâm linh của ngài, điều mà một đứa trẻ bốn tuổi không thể nào giả tạo. Về phần mình, tôi không hề nghi ngờ gì về mối liên hệ sâu đậm của chúng tôi.

Vào mùa hè năm 2001, tôi đã ở gần Rinpoche một tháng trong Tu Viện Ganden Jangtse của ngài ở miền Nam Ấn Độ, nơi mà ở tuổi mười bảy, ngài đã tranh luận giáo pháp trước tập hội tăng già, trong một buổi lễ đánh dấu sự gia nhập chánh thức của ngài vào hàng ngũ học giả. Suốt một tháng, tôi đã thọ nhận giáo huấn của ngài, từ những gì ngài đã học được từ khóa tu Geshe, và đã thông dịch một bài truyền khẩu và giảng giải của một bản văn mà ngài đã ban cho một đệ tử Tây phương thân cận khác của Serkong Rinpoche đời trước. Khi tôi nói với Rinpoche thật tuyệt vời là tôi được thông dịch cho ngài một lần nữa, ngài trả lời rằng, “Dĩ nhiên, đó là nghiệp của con mà.” Không theo nghi thức trịnh trọng, tôi cũng tiếp tục quá trình trao lại cho ngài nhiều tác phẩm giáo pháp và những lời khuyên thế tục mà ngài đã ban cho tôi trong kiếp trước.

Mối quan hệ cá nhân của tôi với Serkong Rinpoche qua hai kiếp sống đã mang lại cho tôi nhiều niềm tin vào Phật pháp và sự tái sanh hơn tất cả những điều tôi có thể thu thập được từ việc tu học và hành thiền. Điều này thật sự là một nguồn cảm hứng liên tục trên đường tu. Cả ngài và tôi đều không hề tự lừa dối mình về vai trò của mình đối với người kia trong mỗi một kiếp sống của ngài. Chúng tôi không hoàn toàn giống như trước, mà cũng chẳng hoàn toàn khác với con người trong quá khứ. Mỗi người chúng tôi là một sự tiếp nối. Với sự tương kính sâu đậm dành cho nhau, dựa trên thái độ thực tế về sự khác biệt giữa những giai đoạn của cuộc sống trước kia và hiện nay, mỗi một người trong chúng tôi đều giảng dạy và học hỏi lẫn nhau trong hiện tại. Điều này có vẻ hoàn toàn tự nhiên.

Là một người hâm mộ phim Star Trek, tôi xem kinh nghiệm này như thể mình là một thành viên của phi hành đoàn trong cả hai phim, bộ phim chánh nhiều tập và Next Generation (Thế Hệ Sau), dưới sự chỉ huy của Thuyền Trưởng Kirk trước đây, và bây giờ vị tái sanh của ông là Thuyền Trưởng Picard, đang được đào tạo như một thiếu sinh quân trẻ. Thử thách chánh của tôi là tiếp tục tạo dựng nghiệp lực để làm việc trong phi hành đoàn của tất cả Enterprises (Những Cuộc Mạo Hiểm) trong tương lai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/07/2015(Xem: 12586)
Nhật báo của thành phố Neuss tường thuật về Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ 27 Ngày 22.07.2015 Những Ngày Nghỉ Hè Được Dành Cho Đức Phật Khoảng 500 người Phật Tử Việt Nam đến từ Âu Châu gặp nhau 10 ngày tại Neuss. Chư Tôn Đức Tăng Ni cùng với tham dự viên của Khóa Phật Pháp Âu Châu lần thứ 27 thực tập giáo lý Phật Đà. Bài của ký giả Von Katrin Haas Thích Như Điển và Thị Chơn dịch từ tiếng Đức sang tiếng Việt
23/07/2015(Xem: 12129)
Quãng năm 2000 tôi may mắn được đọc cuốn sách quý “Năng đoạn kim cương” bằng tiếng Anh tại Sydney, Australia. Phải nói thật rằng, là người đang tìm hiểu về Phật giáo, nhất là mới đọc qua kinh Kim cương lúc bấy giờ, tôi rất yêu thích cuốn sách đặc biệt này. Để rồi, ngay khi rời tập đoàn FPT để lập ra công ty sách Thái Hà vào năm 2007, chúng tôi tìm mọi cách liên lạc với tác giả để mua bản quyền cuốn sách quý này để xuất bản tại Việt Nam. Năm 2008 sách chính thức xuất hiện và vào năm sau 2009, chúng ta có may mắn được đón Geshe Michael Roach và phái đoàn hơn chục giảng viên vào Việt Nam để có 2 buổi nói chuyện công chúng tại Thủ đô Hà Nội và TP HCM với sự tham dự của hơn 1.000 doanh nhân và các nhà tri thức. Và khi đó khóa thiền yoga 3 ngày ấn tượng đã diễn ra tại khu nghỉ dưỡng Ba thương, huyện Củ Chi mang lại lợi ích sâu sắc cho rất nhiều người.
23/07/2015(Xem: 11181)
Ni Sư Thubten Chodron (thế danh Cherry Green), sinh năm 1950, lớn lên gần vùng Los Angeles. Ni sư hoàn thành Cử Nhân Lịch Sử tại Đại Học UCLA năm 1971. Sau khi du lịch qua Châu Âu, Bắc Phi và Châu Á trong khoảng một năm rưỡi, Ni sư trở về Mỹ, lấy chứng chỉ sư phạm, theo học chương trình sau đại học tại USC về Giáo Dục và dạy học ở Hệ Thống Các Trường tại thành phố Los Angeles. Năm 1975, Ni sư tham dự một khóa tu thiền của Ngài Lama Yeshe và ngài Zopa Rinpoche. Sau đó Ni sư qua Nepal tiếp tục tu học và hành thiền tại Tu Viện Kopan. Năm 1977, Ni sư được Ngài Kyabje Ling Rinpoche cho xuất gia tại Dharamsala, Ấn Độ, và năm 1986 Ni sư thọ đại giới tại Đài Loan.
22/07/2015(Xem: 5757)
Đạo Phật không phải là ngẫu nhiên luận rồi vô trách nhiệm đối với những hành vi của mình, hay cho rằng mọi chuyện rủi ro, may mắn, bất ngờ đều do bổng dưng, khi không, tự nhiên mà có. Khái niệm về số mệnh hay số phận là quan niệm của các trường phái triết học như Thần ý luận, Đa thần giáo, Túc mệnh luận, Định mệnh luận và Thiên mệnh.
20/07/2015(Xem: 12375)
" Vào thời mạt thế Nhân loại đảo điên, Tai họa liên miên Sóng thần Động đất. Chủ nghĩa vật chất Ngự trị thế gian,
20/07/2015(Xem: 9058)
Lòng nhân từ của cậu bé 5 tuổi Cậu bé Josiah Duncan, 5 tuổi đã làm khách tại nhà hàng rơi nước mắt sau khi mua cho người đàn ông bữa ăn và hát cho ông nghe.
17/07/2015(Xem: 7414)
Tôi xuất gia từ nhỏ, đã thọ giới Sa-di được bốn năm. Lúc nhỏ thì tôi không biết gì nhưng nay tôi phát hiện mình là người đồng tính nam (gay). Khi các bạn đồng tu biết tôi là gay, họ có vẻ kỳ thị và thường nhìn tôi bằng ánh mắt khác. Cuối năm nay, tôi sẽ được bổn sư cho đi thọ Đại giới, làm Tỳ-kheo. Tôi có nghe rằng người đồng tính nam như tôi thì không được thọ Đại giới. Vậy điều đó có đúng không? Trước đây, tôi có nghe những người như tôi không được thọ Đại giới nên đã nhiều lần có ý định hoàn tục nhưng vì tôi không đủ can đảm để tự quyết định. Bên cạnh đó, sư phụ, bố mẹ và các thầy trong chùa cũng rất kỳ vọng và thương yêu tôi, tôi sợ sẽ làm các vị ấy đau lòng. Hiện tôi không biết phải làm sao? Mong quý Báo hoan hỷ giúp tôi.
15/07/2015(Xem: 9401)
Hãy ngồi thẳng một cách thoải mái, không nghiêng về phía trước hay sau, trái hay phải. Hãy nhắm mắt lại, và hãy nghĩ với các niệm thiện lành. Những niệm thiện lành trước tiên là hướng về bạn, bởi vì nếu bạn không thể hướng niệm thiện lành về bạn -- nếu bạn không thể cảm thấy một khát vọng chân thực cho hạnh phúc riêng của bạn -- sẽ không có cách nào bạn có thể chân thực ước muốn cho kẻ khác có hạnh phúc.
14/07/2015(Xem: 10211)
Phật từng lên tiếng dạy ta: “Những người tu đạo như là khúc cây Trôi trên dòng nước cuồng quay Khôn ngoan thì hãy trôi ngay giữa dòng Ai muốn vớt cũng khó lòng Quỷ thần ngăn chặn cũng không dễ gì
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]