Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Samkasya

18/07/201509:25(Xem: 5004)
Samkasya
XỨ PHẬT TÌNH QUÊ
Thích Hạnh Nguyện - Thích Hạnh Tấn

Samkasya

 Đây là một thánh tích Phật giáo khác mà tương truyền rằng đức Phật sau khi lên cung trời Đao Lợi giảng pháp cho chư thiên và mẹ là Hoàng hậu Maya, ngài đã xuống lại trần thế tại nơi địa điểm này. Kể từ khi đó Samkasya đã trở thành một trung điểm hành hương vì nơi đây được mọi người biết đến như một nơi mà đức Phật đã thực hiện một trong tám phép lạ vĩ đại của ngài. 
Không có nhiều các tài liệu ghi chép chi tiết về những sự kiện và di tích tại Samkasya này. Tuy nhiên có thể nói cuốn Phật Quốc Ký của ngài Pháp Hiển từ Trung Hoa sang đây chiêm bái vào thế kỷ thứ V sau TL đã ghi lại một số nét chính mà chúng ta có thể mường tượng được những hình ảnh và sinh hoạt xảy ra vào thời đức Phật cũng như các thời đại sau ngài. Ta hãy nghe ngài Pháp Hiển tường thuật lại về Samkasya như sau: 
“Samkasya là nơi đức Phật giáng xuống từ cõi trời Đao Lợi sau khi đã giảng pháp cho các chư thiên và mẫu hậu Maya trên cung trời này trong ba tháng. Khi đức Thế tôn dùng thần thông lên cung trời Đao Lợi ngài không cho các đệ tử biết và chỉ đến lúc 7 ngày trước khi xong thời gian 3 tháng trên cung trời ngài mới cho A Nậu Lâu Đà biết. Ngài A Nậu Lâu Đà bèn tin cho ngài Mục Kiền Liên biết và bảo ngài Mục Kiền Liên nên đi gặp đức Phật. Do đại thần lực ngài Mục Kiền Liên lên gặp đức Phật và đảnh lễ ngài. Sau đó đức Phật bảo ngài rằng sau bảy ngày đức Phật sẽ giáng hạ xuống cõi trần. 

Ngài Mục Kiền Liên trở về và thông báo đến mọi người. Vua quan dân chúng trong tám vương quốc lúc bấy giờ đã lâu không gặp đức Phật nên rất khao khát mong được gặp lại ngài. Họ bèn tụ tập nhau nơi Samkasya chờ đợi đức Thế tôn giáng xuống từ cung trời. Lúc ấy có một vị Tỳ kheo ni tên là Utpala khởi tâm tự nghĩ chính mình rằng: “Hôm nay các vị vua quan cùng đại thần đều đi đến đảnh lễ và gặp đức Phật. Ta là một người phụ nữ, làm sao ta có thể thấy ngài trước được?” Biết được ý nghĩ này của Tỳ kheo ni, đức Phật bèn dùng thần lực của mình biến vị Tỳ kheo ni kia thành Chuyển Luân Thánh vương và như vậy cô ni ấy đã được gặp gỡ ngài trước tiên. 

Giờ đây đức Phật đang sắp sửa thị hiện xuống từ cõi trời Đạo Lợi, nơi đó đột nhiên xuất hiện ba chiếc thang báu. Chiếc thang giữa gồm bảy loại trân bảo, cắm xuống nơi đức Phật sắp giáng hạ. Rồi vua trời Phạm thiên cũng hóa ra một chiếc thang bằng bạc, xuất hiện nơi vua trời giáng xuống vào bên phải đức Phật. Vua trời Đế thích hóa ra một chiếc thang bằng vàng xuất hiện nơi vua trời giáng xuống vào bên trái đức Phật. Cũng có vô số chư thiên cùng theo đức Phật khi ngài thị hiện xuống nơi này. Sau khi ngài giáng hạ xuống trần, ba chiếc thang ấy đã biến mất vào lòng đất và chỉ chừa lại có bảy nấc mà người sau còn trông thấy. 

Thời gian sau khi ngài A Dục đến đây chiêm bái, tò mò muốn biết những chiếc thang này dài đến đâu nên ngài đã cho người đào xới chỗ ấy lên để khảo nghiệm. Họ đào và đào mãi cho đến tận nền đất sâu nhưng cũng chưa thấy đáy. Đức vua từ câu chuyện này đã khởi thêm lòng tin và tỏ lòng sùng kính nên cho xây dựng nơi đó một ngôi tịnh thất, và đối diện nơi này ngài cho đặt một pho tượng Phật đứng cao 16 feet. Phía sau ngôi tịnh xá nhà vua cũng cho dựng một trụ đá cao khác và trên đỉnh cho đặt một tượng hình con sư tử. Nơi cây cột này ở bốn mặt đều có những tượng hình của đức Phật; trong ngoài thân cột đều chiếu sáng như gương. Có lần nơi đây xảy ra những buổi tranh luận giữa các tu sĩ Phật giáo với các nhà ngoại đạo. Những tu sĩ Phật giáo bị thua và sau cùng chấp nhận rằng: nếu nơi đây quả thực thuộc về những tu sĩ Phật giáo thì phải có những chứng tích linh thiêng mầu nhiệm xảy ra. Tức thời lúc ấy trên đỉnh sư tử, một tiếng gầm rống to lớn vang lên. Tận mắt thấy những chuyện lạ này nên sau đó các người ngoại đạo ấy bối rối và tự động rút lui. 
Sau ba tháng chỉ dùng toàn thực phẩm cúng dường của chư thiên, thân Phật khi trở về toát ra một hương thơm ngào ngạt và phát ra ánh sáng rực rỡ khác thường, nên sau đó ngay khi vừa giáng xuống ngài đã đi tắm liền. Người đời sau để kỷ niệm bèn cho xây cất ngôi nhà tắm của đức Phật mà hiện vẫn còn. Cũng có một ngôi tháp đánh dấu nơi vị Tỳ kheo ni Utpala đến gặp Phật trước. Một ngôi tháp khác đánh dấu khi xuống đây đức Phật đã cắt tóc và móng tay. Khắp nơi có rất nhiều tháp như tháp đánh dấu nơi vua trời Phạm Thiên và Đế Thích cùng xuống với đức Phật, tháp đánh dấu nơi một vị tăng hàng phục con rồng dữ. Rồi cũng có những tịnh xá lớn ở đây, nơi có khoảng 600-700 tăng sĩ đang tu học lúc bấy giờ.

Ngài Pháp Hiển cũng ghi lại rằng quốc gia này rất phong nhiêu và người dân nơi đây giàu có sung túc không thể sánh. 
Phật giáo đã thịnh đạt ở đây mãi cho đến thế kỷ thứ VII khi ngài Huyền Trang đến chiêm bái nơi này. Ngài cũng ghi lại rằng, lúc ấy cũng còn nhiều tu viện và độ khoảng 1000 vị tăng thuộc Chánh Lượng Bộ đang tu học tại đó. Một sự ghi nhận khác của ngài là trụ đá vua A Dục cao khoảng 70 feet, có màu sắc hồng và sáng. Một nơi khác về hướng đông nam của đại tháp là một chiếc hồ, nơi có một con rắn thần sinh sống và thường bảo vệ các di tích nơi đây. Ngài cũng tả rõ giống như ngài Pháp Hiển về những nơi đức Phật tắm rửa, cắt tóc và móng tay sau khi giáng hạ xuống nơi này. Một số ngọn tháp khác gần bên đánh dấu nơi chư Phật thường đi kinh hành qua lại và thiền định. 

Sau thời đại ngài Huyền Trang thì ít có sử sách ghi lại về nơi chốn này và mãi cho đến năm 1862 thì nơi đây mới được tìm thấy lại do nhà khảo cổ học Cunningham. Trụ đá trên đỉnh có tượng con voi cũng được đặt lại nơi đây trong một hàng rào sắt và một mái che đơn sơ. 
Ngày xưa Samkasya là một trung tâm Phật giáo phồn thịnh và được xem như là một trong tám địa điểm hành hương quan trọng của người phật tử nhưng ngày nay chẳng còn gì lại nhiều ngoài vài ba di tích không được bảo quản tốt đẹp và nhiều đền thờ Ấn giáo được xây dựng chung quanh khu này. Phải chăng những người Ấn giáo cũng xác nhận rằng đây là một trong những thánh tích của họ hay chỉ là một cách xây dựng để chiếm đóng những nơi chốn linh thiêng của Phật giáo. Dẫu sao thì các việc làm này cũng chẳng có gì lạ vì có nơi thánh tích Phật giáo nào của người phật tử mà lại không có đền thờ Ấn giáo của họ xây dựng bên trong?

Đến Samkasya

 Samkasya nằm trong vùng Farrukhabad thuộc tiểu bang Uttar Pradesh và ngày nay có tên mới là Sankisa. Tọa lạc về hướng tây bắc của Kannauj cách đó khoảng 80km, và nằm không xa từ sân ga Pakhna (11.3km) trên tuyến đường đi từ Shikohabad đến Farrukhabad. 

Từ Delhi đi Samkasya là 315km bằng đường bộ ngang qua Ghaziabad-Aligarh-Etah-Bewar trên quốc lộ chính số 22. Từ Bewar khách hành hương có thể đi tiếp tới Samkasya ngang qua Mohammadabad và Pakhra.. 
Một tuyến đường khác là nếu đi từ Agra thì cách Samkasya khoảng 175km ngang qua Firozabad-Shikhobad-Manipuri-Bewar-Mohammadabad và Pakhra. Trạm ga gần nhất là Pakhra nằm trên tuyến đường Shikhobad và Farrukhabad. 

 Còn nếu đi từ Lucknow thì trước phải đến Bebar cách Samkasya khoảng 236km, và sau đó đi tiếp 18 km đến Mohamadpura. Từ thị trấn này đến Sankasya chỉ độ khoảng 15km và khách hành hương có để dùng xe lam hoặc Taxi để đi tiếp phần đường còn lại. Khách hành hương cũng có thể đi hướng khác từ Kanpur đến Bebar và phần đường còn lại thì đi giống như trên.

Ngủ lại đêm

P.W.D. Inspection House, Samkasya. 
Một số các khách sạn khác có thể tìm thấy ở Farrukhabad.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/05/2021(Xem: 12816)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5632)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5135)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5341)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4700)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4386)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4937)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4429)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3847)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 7098)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]