Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Không nên cho kẻ phàm tục xuất gia

07/05/201508:49(Xem: 14512)
Không nên cho kẻ phàm tục xuất gia

Mi tien van dap

KHÔNG NÊN CHO KẺ PHÀM TỤC XUẤT GIA
trong giáo hội thanh tịnh của đức Bổn Sư
Hòa Thượng Giới Nghiêm dịch
Tỳ Kheo Giới Đức hiệu đính




 

(Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết-bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn Độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena. 

Những câu hỏi thì đa trí, sắc bén mà lời giải đáp lại thâm sâu, quảng kiến, lợi tuệ; nhiều khi chỉ là những ví dụ cụ thể, bình dân, giản dị, rất bổ ích cho các nhà học giả, người nghiên cứu, kẻ đa nghi cũng như sự học Phật của các hàng hậu tấn.)


- Thưa đại đức! Trẫm nghe rằng giáo hội của Đức Tôn Sư trong sạch, quý báu, cao thượng lắm phải chăng?

- Tâu, vâng.

- Trong giáo hội ấy, tất cả Tăng chúng và Ni chúng đều là người đã chứng đắc các quả vị thanh tịnh cả chăng?

- Tâu, không hẳn thế. Có rất nhiều vị đắc quả Tứ thánh. Có nhiều vị đang trên đường. Có nhiều vị còn ít phàm tính. Có nhiều vị còn nhiều phàm tục, lắm tham, sân, si v.v...

Các bậc thanh tịnh, cao quý đã chứng đắc quả Thánh thì sẽ làm cho giáo hội trang nghiêm, đẹp đẽ, tôn quý hơn lên, chúng ta không đề cập ở đây. Những vị đang trên đường kiên trì, tinh tấn thực hành giáo pháp thì trước sau cũng đạt được mục đích tối thượng, chúng ta cũng không đem ra bàn. Trẫm chỉ hỏi đến hai hạng người cuối: những vị nhiều phàm tính và ít phàm tính - những vị ấy có khả năng chứng ngộ đạo quả chăng? Hoặc trong tương lai, họ sẽ ra sao?

- Tâu, có thể có người đạt quả vị nhỏ hoặc không đắc đạo quả nào cả. Có vị không đắc đạo quả nào nhưng được phước báu trời, người. Có vị chỉ như là gieo duyên cho vô lượng kiếp về sau. Cũng có nhiều vị như muỗng canh ở trong nồi canh, chẳng nếm được hương vị của giáo pháp, cho dẫu nhiều đời họ khoác phẩm mạo sa môn. Có nhiều vị sau khi tu không được gì, họ hoàn tục; như ngựa quen đường cũ, tật nào tánh nấy, sống đâu cũng hư dối, gian ác, tham lam, lọc lừa... Như thế là trong giáo hội còn có rất nhiều người hư, xấu, chứ không phải ai cũng tốt đẹp cả đâu.

- Những kẻ như thế mà sao Đức Tôn Sư vẫn để họ tồn tại trong giáo hội? Đức Phật không sợ người ta chê bai, phỉ báng giáo hội, rằng giáo hội ấy quả là rất xấu xa nên có người xuất gia cũng rất xấu xa! Tại sao Đức Thế Tôn không ngại họ làm nhơ uế giáo hội?

- Những vị tỳ kheo xấu xa, nhơ uế ấy có liên quan gì đến sự thanh tịnh của giáo hội đâu!

- Tại sao không liên quan? Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Con sâu làm rầu nồi canh. Lý nó vậy làm sao đại đức biện hộ được?

- Đại vương nghĩ thế nào, ví như có một chiếc hồ trong vắt, mát mẻ, có người con trai mình đầy bụi đất muốn đến đấy tắm cho sạch sẽ, nhưng y vừa lội xuống đã vội bước lên. Thế là bụi đất ở trên người y vẫn còn nguyên. Có người thấy vậy, không chê chàng thanh niên mà lại chê cái hồ nước: "A! Cái hồ nước ấy quả là bất tịnh, nó dính đầy dơ uế, bụi đất". Lời chê trách ấy có đúng chăng, đại vương?

- Ai lại chê cái hồ bao giờ! Có chê là chê chàng thanh niên làm biếng, không chịu kỳ cọ tắm rửa thân thể cho sạch sẽ.

- Cũng thế, ai lại chê trách giáo hội bao giờ, đại vương! Có chê là chê vị tỳ kheo không chịu rửa ráy tâm mình bằng giới luật cho sạch sẽ, không chịu thiền định để cho tâm được tĩnh lặng, bình hòa, an ổn. Lỗi ở ai thì đại vương biết rồi!

- Vâng!

- Giáo hội của Đức Bổn sư vốn không có dơ bợn, bao giờ cũng quý báu, cao thượng, trong sạch. Tuy nhiên, cũng rất là thường tình khi trong giáo hội ấy có những phàm phu tục tử vào tu không phải với mục đích cao thượng, chỉ nhắm đến những mục đích hạ liệt như: kiếm miếng cơm manh áo, tích lũy tứ sự cúng dường, được thân cận bậc quyền quý, cao sang, tìm chỗ nhàn hạ, thảnh thơi, tham vọng lãnh đạo tăng chúng v.v... 

 

Với hạng người ấy, đa phần là những kẻ lười biếng tu tập; chỉ có ăn và ngủ, nhìn ngắm nữ giới, chọc ghẹo nữ giới; chẳng theo pháp học, pháp hành; không chịu thọ đầu đà, không thọ trì giới luật dù lớn dù nhỏ; tà mạng lang thang nhà thí chủ này, thí chủ kia để xin vật này, vật nọ. Khi tích lũy, tom góp được của cải, tài sản rồi; những kẻ ấy mang về cho gia đình, quyến thuộc, vợ con; hoặc nếu chưa có vợ con thì đem cho những người nữ, quyến rũ những người nữ để lợi dụng dâm dục, làm việc bất tịnh, xấu xa. Chúng ẩn mình trong chiếc y cà sa, lợi dụng tín tâm của nhiều người để thỏa mãn tham vọng, mưu đồ, để thỏa mãn tham muốn thấp hèn. Chúng ở đâu cũng phóng túng, bừa bãi, ăn nói lố lăng, đi đứng vung vãi; không hề biết hổ thẹn với đám đông, với mọi người v.v...

Tuy nhiên, tâu đại vương! hiện tượng ấy cũng tự nhiên như vàng ngọc thì ít nhưng đá sỏi đất cát thì nhiều. Đá sỏi đất cát nhiều, vàng ngọc càng quý hiếm như thế nào, thì các bậc xa rời trần cấu càng trở nên quý báu, cao thượng chừng ấy! Không thể chê trách hồ nước, chỉ nên chê trách chàng thanh niên ở trong hồ nước sạch mà không chịu tắm rửa. Giáo hội và những người xuất gia phàm phu tục tử cũng y như thế. Đức Phật là bậc Toàn Giác, thấy rõ thế gian, thông suốt thế gian, ngài biết rằng: những kẻ xấu xa bất tịnh ấy, vài ba kiếp về sau, ngàn kiếp về sau, hoặc lâu xa hằng vạn kiếp quả địa cầu, chúng cũng sẽ được cứu độ, tâu đại vương!

- Thật là kinh khiếp! Trẫm hiểu rồi, nhưng còn muốn nghe ví dụ.

- Vâng, ví như có một bệnh nhân ở gần nhà một vị lương y đại tài. Vị lương y ấy sau khi xem bệnh, chẩn bệnh, kê cho một toa thuốc, bốc thuốc rồi dặn bệnh nhân ấy rằng: "Thuốc này chữa được bệnh của anh, nếu uống mười thang như thế. Vậy hãy lấy siêu đổ vào ba chén nước, sắc còn tám phân, lần thứ hai, đổ vào hai chén rưỡi nước, sắc còn sáu phân, trộn chung lại, chia làm hai lần mà uống. Khi uống thuốc xong, phải kiêng cử không nên ăn vật này, vật nọ." Bệnh nhân nghe nhưng không sắc, không uống. Cũng có thể có sắc, có uống nhưng không đúng liều lượng như vị lương y đã chỉ bày. Cũng có thể có sắc, có uống đúng liều lượng nhưng không chịu kiêng cử. Thế là bệnh nhân không lành. Trường hợp ấy thì nên trách thầy thuốc hay trách bệnh nhân?

- Trách ai thì trẫm hiểu rồi.

- Bệnh nhân kia không uống thuốc, hoặc có uống nhưng không đúng liều lượng, có uống nhưng không biết kiêng cử; tương tự như các hàng xuất gia phàm phu tục tử trong giáo hội của Đức Bổn Sư đấy, tâu đại vương!

- Vâng!

- Ví như có người nghèo đói nọ không có cơm cháo ăn, một người giàu có, nhiều thiện tâm, thấy vậy nói rằng: "Vậy mỗi ngày hãy đến nhà tôi ở đầu phố, mang theo đồ đựng vật thực, cơm cháo tôi để dành sẵn nơi cái bàn ở mái hiên, mang về ăn để chiến thắng cái đói." Nhưng người nghèo đói kia làm biếng, ngại đường xa, không chịu đi lấy cơm cháo. Chuyện ấy biết trách ai bây giờ đại vương!

- Làm biếng thì rán chịu đói, kẻ ấy dù có chết cũng chẳng ai thương. Người ta còn khen sự thiện tâm của người giàu có: "Cơm cháo để dành sẵn cho kẻ đói nghèo." Tương tự thế, kẻ xuất gia ngu si không nếm được hương vị của pháp, nuôi dưỡng tâm tính hạ liệt, nhiều bợn nhơ, cấu uế; trong lúc giáo pháp của Đức Tôn Sư luôn dành sẵn "cơm cháo thơm ngon, bổ dưỡng" cho đủ mọi căn cơ trong xã hội. Người ta không chê trách giáo hội mà còn khen giáo hội luôn mở rộng cửa kho tàng cho những ai siêng năng, đến đấy lấy "vật thực nuôi tuệ mạng" cho mình. Đúng là giáo hội có lòng từ, có tâm bi mẫn đối với chúng sanh vậy.

- Ngợi khen, tán dương không có lý nghĩa gì đối với Đức Tôn Sư, nhưng thế gian, những người có trí họ sẽ ngợi khen tán dương giáo hội là chuyện có thật!

Đức vua Mi-lan-đà ngẫm ngợi giây lát:

- À, cái gọi là "vị ngon ngọt, bổ dưỡng", để "nuôi dưỡng tuệ mạng" là những gì vậy, thưa đại đức?

- Tâu, đại vương hãy nghe đây. Vật thực, đồ ăn ngon bổ thường mang đến sự tham đắm, tham luyến. Vật thực, đồ ăn ấy không chỉ là những thứ dùng để ăn nơi miệng mà còn mang nghĩa rộng hơn: đấy là tất cả "vật thực ngũ trần" mà ngũ căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân) muốn ăn! Tham đắm, tham luyến ngũ trần thường dẫn đến hành động xấu xa tội lỗi. 

 

Người xuất gia trong giáo hội thường được Đức Phật dạy về pháp môn Tứ niệm xứ - tức là bốn chỗ quán niệm: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Niệm thân bất tịnh là đề mục đầu tiên, sơ cơ nhất cho mỗi hành giả. Phải thấy rõ sự bất tịnh của thân, thường dành cho những người nhiều tham, nhiều dục, nhiều mê đắm!

- Tâu đại đức! Tại sao thân lại bất tịnh?

- Tâu, nó bất tịnh, vì cái gọi là thân ấy chỉ là tổng hợp của tóc, lông, móng, răng, da, đàm, dãi, bao tử, ruột non, ruột già, nước mắt, phẩn, ghèn v.v..., nói đủ là ba mươi hai thể trược.

Người nào chuyên niệm thân đầy những uế trược ấy, thấy rõ được uế trược ấy; sẽ nếm thưởng được những vị ngon ngọt, cao quý, những phần thưởng cao quý:

Thứ nhất là, được uống nước cam lồ của thiên cung (ý nói phước báu cảnh trời).

Thứ hai là, nếu niệm thân mà có định, khi lâm chung, khỏi rơi vào 4 đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la)

Thứ ba là, nếu niệm thân được tốt, ái dục và phiền não tương đối yên lặng (có định), hành giả phát triển tuệ quán: quán thân đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi v.v..., đấy được gọi là "nuôi dưỡng tuệ mạng", vì nó là con đường của tuệ giác, giác ngộ, giải thoát.

Tâu đại vương! Đấy là hàm nghĩa "cứu đói", "ngon ngọt bổ dưỡng" cũng như "nuôi dưỡng tuệ mạng"! Xin đại vương hãy suy gẫm.

- Thưa, rõ ràng lợi ích thứ ba ấy cao quý nhất. Từ niệm thân mà sang quán niệm có thể xuất ly cả ba cõi: dục, sắc và vô sắc; có thể chấm dứt sinh tử luân hồi, vĩnh ly phiền não và đắc quả Niết bàn! Ôi! ngon ngọt bổ dưỡng đến thế là cùng. Tuy nhiên, thưa đại đức, trẫm lại phát sanh thêm một hoài nghi.

- Xin tự nhiên cho!

- Vâng. Tại sao Đức Tôn Sư và các vị Thánh Tăng không dạy cho cư sĩ thực hành ngang chỗ ấy; chỗ thấy rõ thân bất tịnh, cấu uế; ngũ trần bất tịnh, cấu uế? Hãy cho họ đặt được bàn chân đầu tiên trên lộ trình của giáo pháp, cho họ uống được tí xíu ngon ngọt bổ dưỡng của hương vị pháp mầu rồi hãy cho họ xuất gia? Nếu được như thế thì giáo hội của Đức Tôn Sư sẽ hoàn hảo xiết bao? Hoàn hảo và hoàn toàn trong sạch, cao quý, cao thượng!

Đại đức Na tiên mỉm cười:

- Đại vương quả có lòng tốt cho giáo hội, nhưng việc "bảo vệ" ấy xem ra có gì không ổn, đại vương biết chăng?

- Xin đại đức bi mẫn chỉ dạy?

- Vì lòng thương yêu bá tánh không có chỗ tắm rửa sạch sẽ, đại vương cho làm một cái hồ lớn, nước trong mát mẻ. Sợ nước hồ dơ bẩn do quá nhiều người đến tắm, muốn bảo vệ nước hồ sạch, đại vương ra một bảng cáo thị: "Ai đến đây tắm cũng được, nhưng mọi người hãy tắm sơ sơ ở đâu đó, rửa tay, rửa chân, kỳ cọ thân thể cho bớt dơ bẩn, ít đất bụi mới cho phép xuống hồ!" Cái bảng cáo thị ấy nghe có lọt tai không, đại vương?

Đức vua Mi-lan-đà đưa tay gãi đầu:

- Ờ... ờ! Quả là không được nhỉ!

- Dạy cho người cư sĩ tại gia bớt cấu uế mới cho xuất gia, có khác gì tắm trước mới cho xuống hồ, hở đại vương!

Đức vua Mi-lan-đà cười xòa:

- Thật không có ví dụ nào sít sao hơn!

- Cái mà chúng ta gọi " rửa ráy cho sạch sẽ sơ sơ, kỳ cọ tắm rửa cho bớt cấu uế, nếm tí xíu vị ngon ngọt của pháp, đặt được bàn chân đầu tiên trên lộ trình của giáo pháp" - những nhóm từ ấy nghe thì thường thường - nhưng thực ra, phải tu nhiều đời nhiều kiếp, căn cơ sâu dày mới được vậy, đại vương hiểu chăng?

- Thưa, chưa rõ.

- Đấy là cách nói khác của quả vị Thánh nhân đầu tiên: là khai mở tuệ nhãn, là đã bắt đầu đi vào dòng Thánh, là đặt được bàn chân đầu tiên trên mảnh đất bất tử - là ám chỉ quả vị Tu đà huờn, tâu đại vương!

- À, ra thế!

- Những bậc ấy, những vị ấy, dù họ có tu hay không tu, dù họ xuất gia hay tại gia; sáu, bảy kiếp lưu lạc cõi trời và người nữa thôi, họ sẽ đắc quả Bất hoàn hoặc Vô sanh A-la-hán, tâu đại vương!

- Xin ghi vào lòng!

- Nếu Đức Phật và chư vị Thánh Tăng đại Trưởng Lão, dạy cư sĩ được ngang chỗ ấy - chỗ bắt đầu đi vào dòng Thánh ấy - thì việc xuất gia còn có nghĩa lý gì với họ nữa mà nói chuyện xuất gia, phải không đại vương?

- Thưa phải!

- Đắc quả Thánh đầu tiên có nghĩa là mọi phận sự họ đã làm, và làm tốt, rồi từ từ họ sẽ giảm bớt cấu uế! Thấy được bệnh, đã uống thuốc và đã lành bớt bệnh mà còn đến nhà thầy thuốc xin chẩn bệnh là việc làm của người ngu đấy, tâu đại vương!

- Đúng thế! Có bệnh mới đi tìm thầy thuốc. Bớt bệnh thì cứ vậy mà uống, tịnh dưỡng, nghỉ ngơi, kiêng cử, thời gian sau sẽ lành thôi.

- Tương tự thế, những người đã đắc quả Tu-đà-huờn, xuất gia không có nghĩa lý gì với họ nữa, trước sau gì, ở đâu, họ cũng giác ngộ, giải thoát thôi!

Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:

- Người có bệnh mới đi tìm thầy thuốc. Cũng thế, Đức Phật sẽ không ngăn cấm người tại gia nhiều cấu uế, nhiều bệnh; cứ để cho họ xuất gia trong giáo pháp của ngài.

- Vâng, đúng thế. Ví như đại vương thấy xóm làng kia thiếu ăn, đại vương cho người nấu rất nhiều cơm, cả hàng trăm phần, rồi bố cáo rằng: "Ai đói thì cứ đến lấy cơm ăn theo ý muốn." Người muốn thì đến lấy cơm ăn, người không muốn thì họ sẽ không đến lấy ăn, giản dị vậy thôi.

- Quả vậy.

- Đức Thế Tôn từ bi tế độ chúng sanh, như đại vương bố thí cơm vậy. Sẽ có một số người đến xin xuất gia, số người khác sẽ không đến, hoàn toàn tự do, tùy ý. Trong số xuất gia ấy, có một số biết làm bổn phận của mình và làm tốt bổn phận của mình, đã đi vào dòng Thánh hay đang trên đường đi vào dòng Thánh. Số ấy thường ít. Còn số đông không biết bổn phận của mình, không làm tốt bổn phận của mình hoặc phá hoại, xem thường bổn phận của mình, tâu đại vương!

- Thưa, vậy chính số đông phàm phu tục tử, ngu si ấy làm nhơ bẩn, cấu uế giáo hội đấy, đại đức!

Đại đức Na tiên mỉm cười:

- Giáo hội không bao giờ cấu uế, bất tịnh đâu, đại vương chớ lo về điều ấy. Nó có mấy lý do. Thứ nhất, một thời gian ngắn, những kẻ ấy cũng hoàn tục, trở lại nếp sống cũ trước đây của họ. Thứ hai, những kẻ xấu xa ấy ở trong phẩm mạo tăng tướng sa môn, nếu họ không hoàn tục sớm cũng hoàn tục muộn; vì họ sẽ nóng nảy, bất an, khoác chiếc y mà như khoác cái lò lửa! Thứ ba, những kẻ đầy cấu uế họ sẽ được giáo pháp cảm hóa chút chút, họ sẽ sống tốt hơn thuở xưa!

Đại vương có biết tại sao phát sanh ba trường hợp nêu trên không?

- Thưa, không rõ!

- Tâu, vì có năm đức tính quý báu, cao thượng của bậc xuất gia, của tăng tướng sa môn. Chính nhờ năm đức tính ấy mà nó "đẩy" người xấu hoàn tục sớm, "đẩy" người xấu hoàn tục muộn hoặc cảm hóa, thấm nhuần kẻ xấu cho được tốt hơn.

- Trẫm rất muốn nghe năm đức tính cao thượng vi diệu ấy.

- Tâu, năm đức tính ấy là:

Trước tiên, bậc xuất gia là phẩm mạo sang cả, có địa vị lớn, phước báu lớn, chức năng, chức danh lớn.

Tiếp đến, bậc xuất gia có trạng thái trong sạch lớn, thanh tịnh lớn.

Thứ ba, bậc xuất gia không thân cận với người xấu ác (ác tâm, uế tâm).

Thứ tư, bậc xuất gia sẽ đắc những pháp cao siêu, cao thượng rất khó khăn, thế gian khó thấy, khó hiểu, khó biết được.

Thứ năm, bậc xuất gia luôn có Tứ thanh tịnh giới làm đất đứng, chỗ tựa vững chắc, làm sức mạnh cho mình.

- Xin đại đức hoan hỷ giảng cho từng điểm một, cho sáng rõ ý nghĩa: Giáo hội không bao giờ cấu uế, bất tịnh?

- Vâng. Chúng ta sẽ đi từ điểm thứ nhất: "Bậc xuất gia là phẩm mạo sang cả, có địa vị lớn, chức danh, chức năng lớn, phước báu lớn" là tại sao?

Bậc xuất gia ví như ngôi vua chí tôn, chỉ để dành cho những người đã có tích trữ phước báu sâu dày. Phước báu là tên gọi chung chỉ cho y báo và chánh báo. Y báo và chánh báo cũng mới chỉ là tên gọi chung để chỉ cho tất cả những phước báu thọ hưởng trên đời này, đó là: địa vị, chức tước, phẩm hàm, phú quý, tiền bạc, công danh, vợ con, gia sản, quyến thuộc, kiến thức, dung mạo, trí tuệ v.v... Trên thế gian, phước báu của vua là đệ nhất. Phước báu ấy nó phù hợp với ngôi vua ấy, đức vua ấy.

Giả dụ một người ít phước báu hoặc không có phước báu, nghĩa là một người nghèo hèn, ngu dốt, đui què mẻ sứt, vô học... mà đặt lên địa vị ngôi vua thì chuyện gì sẽ xảy ra, đại vương?

- Sẽ phát sanh rất nhiều sự nguy hại, tai hại xảy ra cho chính đức vua ấy. Có thể bị tẩn suất, bị giết, bị các quan đại thần khinh bỉ, thế gian cười chê. Cuối cùng, y không thể ngồi yên trên ngai vàng, luôn cảm thấy nóng nảy, bất an; nếu không bị ai giết thì y cũng cảm thấy xấu hổ, đau khổ, và tự động rút lui, xin trở về làm thường dân!

- Cũng tương tợ thế, kẻ ít phước báu, nghĩa là kẻ đần độn, si mê, xấu ác... mà xuất gia trong giáo pháp của Đức Tôn Sư sẽ bị Tăng lữ khinh bỉ, mọi người cười chê; cuối cùng y sẽ nóng nảy, bất an; cảm thấy đau khổ, xấu hổ... mà xin hoàn tục, trở về với cuộc đời!

Đức vua Mi-lan-đà cảm thán:

- Ôi! Chính nhờ năng lực của đức tính thứ nhất này, nó "đẩy" người xấu kia ra khỏi giáo hội! Lạ lùng thay mà cũng vi diệu thay! Xin đại đức cho nghe điều thứ hai?

- Tâu: "phẩm mạo xuất gia vốn hàm tàng sự trong sạch lớn, thanh tịnh lớn"! Tại sao lại như thế? Đại vương! Ngài nghĩ như thế nào! Ví như những giọt mưa, những hạt sương rớt trên lá sen, chúng chỉ chạy lướt qua, lăn trôi đi, rơi đi chứ không thể dính trên lá sen hoặc ngấm sâu vào lá sen được! Tại sao thế? Tại vì lá sen trơn láng, trong sạch; nó đẩy đi tất cả những thứ gì có thể bám dính vào! Giáo hội của Đức Tôn sư, phạm hạnh của bậc xuất gia bản chất cũng giống như lá sen ấy. Những kẻ lạm mạo tăng tướng, xuất gia trong giáo pháp này mà có tâm địa không tốt, lường láo, khoe khoang, gian manh, xảo trá, phá giới - sẽ tự mình chuốc lấy sầu khổ - một lúc nào đó cũng phải trượt đi, rơi đi... không tồn tại trong giáo pháp kia được, phải hoàn tục thôi. Đây là năng lực vi diệu có từ đức tính thứ hai này.

- Vậy cho trẫm nghe tiếp điều thứ ba, tức là "đức tính không thân cận bậc xấu ác", thưa đại đức?

- Tâu, vâng! Ví như biển cả trong sạch, vốn không bao giờ dung chứa vật bất tịnh, bất cứ xác chết nào lớn hoặc nhỏ, người hoặc thú; nếu trôi xuống biển lớn, một lúc nào đó sóng sẽ đánh dạt những tử thi ấy vào bờ. Biển luôn luôn dọn sạch những vật bất tịnh để giữ gìn sự thanh khiết cho mình. Cũng tương tự thế, những kẻ bất tịnh, xấu xa, ác tâm, tà tâm, hung dữ, thô bỉ, trược hạnh, lười biếng, ngu tối... sẽ không thể tồn tại lâu dài trong giáo hội của Đức Tôn Sư. Phẩm mạo xuất gia và giáo hội ấy không thể làm bạn, gần gủi kẻ xấu ác được. Biển đẩy, sóng xô lên bờ các vật bất tịnh như thế nào thì bản chất thanh khiết của phẩm mạo xuất gia cũng đẩy, cũng xô chúng đi như thế. Đấy là ý nghĩa thứ ba, tâu đại vương!

- Trẫm đã hiểu, xin cho nghe tiếp điều thứ tư.

- Tâu, vâng! Ví như một người căn cơ chậm lụt, ngu đần, chẳng học được văn chương, hay võ nghệ, chỉ đeo đuổi cái nghề bắn cung mà thôi. Nhưng nghề bắn cung cũng không dễ gì. Người thầy chỉ dạy cho kiến thức cơ bản: tay cầm, mắt nhắm, chỗ đứng, hướng gió v.v..., nhưng y cũng không thể nào bắn trúng mục tiêu. Chán nản quá, y bỏ đi, không học nữa, trở thành kẻ vô công rồi nghề, ăn bám xã hội. 

 

Loại người này do thiếu phước, do nhiều kiếp tạo nghiệp ác, nên kiếp này si mê, đần độn, ngu xuẩn, ăn nói bập bẹ, phều phào, nước dãi chảy đầy mồm miệng, hay quên, hay lẫn... chẳng làm được bất cứ một việc gì trên đời này. Những kẻ ấy không thể học được nghề bắn cung thì làm thế nào có khả năng, trí tuệ để học hỏi giáo pháp Tứ diệu đế nhiệm mầu, cao siêu - đòi hỏi tinh tấn, kiên trì, chú tâm, tỉnh giác - là những đức tính mà không bao giờ y có thể có được. Người học bắn cung chán nản bỏ đi như thế nào, thì người ngu si kia cũng sẽ hoàn tục, bỏ đi như thế!

- Rõ ràng lắm! Đại đức hoan hỷ cho nghe thêm điều thứ năm: "Bậc xuất gia có Tứ thanh tịnh giới làm nền tảng, làm đất đứng, là sức mạnh của mình."?

- Ví như một đám quân rời rạc, yếu ớt, không có dũng cảm... bước vào chiến trận, nhìn xung quanh thấy quân địch bao vây hàng hàng lớp lớp, gươm giáo sáng lòa, đồng loạt xông tới. Sợ hãi quân địch, đám quân ấy run rẩy, khiếp sợ, bèn vội quăng giáo, đua nhau chạy trốn. 

 

Cũng vậy, những kẻ xuất gia trong giáo hội này có tâm địa tráo trở, làm việc xấu xa, tà hạnh, bất chánh... sẽ có tâm sợ hãi, khiếp nhược... khi sống giữa hội chúng thanh tịnh. Năng lực thanh tịnh của phẩm mạo xuất gia toát ra một sức mạnh, một hùng lực... bao vây lớp lớp xung quanh, làm cho kẻ xấu ác run rẫy, sợ hãi, quăng y, quăng bát, trở về hoàn tục cũng giống như thế.

- Thật là hay lắm vậy. Tất cả những kẻ xuất gia xấu xa ấy, rốt lại, bị đẩy ra ngoài hết, bản chất của giáo hội thanh tịnh thì vẫn là thanh tịnh.

- Đúng thế! Ví như hoa sen là cao quý, hương thơm ngát so với trăm hoa, sắc màu tinh khiết, nhã đạm. Ai cũng ưa và ai cũng thích. Đại vương bảo thuộc hạ trồng một hồ sen để thưởng thức. Hôm kia rảnh rỗi, bệ hạ ra hồ sen ngắm cảnh cho thư thái tâm hồn. Sắc hoa sen đẹp và hương thơm ngạt ngào. 

 

Nhưng ngắm kỹ, có khá nhiều hoa bị sâu đục, cắn đài hoặc khóet nhụy, bệ hạ tức giận lắm. Sau bình tĩnh nghĩ lại, biết bắt tội ai bây giờ? Bắt tội người trồng, không thể, bắt tội sâu, không thể. Bắt tội những cây sen bị sâu khóet đục, cũng không thể. Giữa đất trời này có gì là hoàn hảo? Vả, hồ sen vẫn khoe sắc và tỏa hương! Dẫu có những đóa bất toàn nhưng không vì vậy mà hồ sen thiếu sắc, thiếu hương!

Giáo hội của Đức Tôn Sư, phẩm hạnh của bậc xuất gia dẫu không được như ý muốn của đại vương; dẫu có những kẻ bị sâu đục khóet, nhưng giới đức, định đức, tuệ đức, giải thoát đức vẫn khoe sắc và tỏa hương ngào ngạt. Những sa môn đệ nhất quả, đệ nhị quả, đệ tam quả, đệ tứ quả, biện tài, thần thông, tuệ phân tích, thuyết pháp, đầu đà, mật hạnh, thiền định... vẫn tỏa sáng như những ngôi sao giữa bầu trời trong vắt, đại vương có thấy thế chăng?

- Quả đúng vậy.

- Lại nữa, ví như có người trồng lúa Sàlilohitaka [*], nó có đặc tính: hễ nơi nào có lúa Sàlilohitaka, thì nơi ấy, lúa Sàlikarumabaka cũng mọc lên chen dày không có chỗ hở. Nhưng lúa Sàlikarumabaka không thể làm hư hại lúa Sàlilohitaka, vì nó mọc lên ở đâu thì nó bị diệt mất, tiêu hoại ở đấy. Cũng thế, những người vào tu trong giáo hội, không được hưởng chút hương vị nào của giáo pháp, hoàn tục trở lại cuộc đời. Như thế, chúng cũng "mọc" lên như lúa Sàlikarum-abaka, chúng cũng tự tiêu hoại như lúa Sàlikarumabaka, không hai, không khác.

[*] Tên một loại lúa, thơm ngon và quý nhất.

- Ví dụ hay lắm.

- Lại nữa, ví như ngọc ma ni làm cho thành tựu mọi điều mơ ước con người, gọi là ngọc như ý. Không tỳ vết, gọi là ngọc như ý, có tỳ vết chút ít, cũng gọi là ngọc như ý, cũng thành tựu mơ ước cho mọi người giống nhau. Những người xấu xa xuất gia trong giáo hội, làm cho giáo hội thanh tịnh có tỳ vết. Có tỳ vết, hay không có tỳ vết thì giáo hội vẫn thanh tịnh, vẫn tỏa hương thơm ngào ngạt, vẫn thành tựu mơ ước cho mọi người, vẫn lợi ích cho chư thiên và nhân loại.

- Đúng thế!

- Lại nữa, ví như chiên đàn đỏ. Chiên đàn đỏ toàn hảo, không bị sâu ăn, không bị hư mục..., nó tỏa hương thơm ngào ngạt. Nhưng chiên đàn đỏ khiếm khuyết, hư lủng, bị sâu ăn... vẫn tỏa hương thơm ngào ngạt. Dẫu những tỳ khưu xấu tồn tại trong giáo hội hoặc hoàn tục về nhà, giáo hội ấy vẫn là chiên đàn đỏ; những phẩm mạo xuất gia trong phạm hạnh ấy, toàn thể ấy, hương thơm ấy vẫn xông ngát đến bốn cõi Tứ đại thiên vương!

Đấy là tất cả mọi kiến giải ngu hèn và vụng về của bần tăng, mong đại vương chỉ giáo thêm cho.

- Không dám. Ai mà làm thế thì cái đầu của hắn sẽ bị vỡ thành bảy mảnh.

- Mô Phật!


Trích từ MI TIÊN VẤN ĐÁP (MILINDA PANHA)
Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha Thera Thita Silo)
Tỳ kheo Giới Đức hiệu đính, ấn bản 2003

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2020(Xem: 5728)
Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais sinh năm 1887 tại Cincinnati, thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ. Thân phụ của bà là cụ ông John Coblentz và mẫu thân là cụ bà Margaret Norman Coblentz. Vốn mồ côi cha từ thuở ấu thơ, mẹ phải vất vả đùm bộc trong cảnh gà mái nuôi con; Jacques Marchais đã đến các trại mồ côi và các mái ấm khác nhau trong suốt thời thơ ấu, và tuổi thanh xuân 16, bà đã trở thành diễn viên tham gia vào một bộ phim Boston Peggy From Paris, nơi bà gặp người chồng đầu tiên Brookings Montgomery. Bà sinh được ba người con, hai gái Edna May và Jayne, và con trai, Brookings.
08/12/2020(Xem: 15899)
29/ Nhị Tổ Huệ Khả Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Năm, 01/10/2020 (15/08/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻 Bổn lai duyên hữu địa, Nhơn địa chúng hoa sanh, Bổn lai vô hữu chủng, Hoa diệc bất tằng sanh. Xưa nay nhơn có đất, Bởi đất giống hoa sanh, Xưa nay không có giống, Hoa cũng chẳng từng sanh Nam Mô Đệ Nhị Tổ Huệ Khả Tôn Sư 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼 Múi giờ : pháp thoại mỗi ngày của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 01:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 10:45pm (giờ Paris, France) - 03:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 https://www.facebook.com/quangducwebsite
07/12/2020(Xem: 5938)
Cư sĩ Giuseppe Tucci (dʒuˈzɛppe ˈtuttʃi; sinh ngày 5 tháng 6 năm 1894 – mất ngày 5 tháng 4 năm 1984), Học giả tiên phong người Ý, nhà Đông phương học, Ấn Độ học, Đông Á học, người đã xuất bản một số sách, mở đầu cho việc nghiên cứu tôn giáo, lịch sử và văn hóa của Tây Tạng. Ông là một trong những học giả Tây phương đầu tiên du hành một cách rộng rãi trên khắp vùng cao nguyên, Phật giáo Kim Cương thừa Tây Tạng và các vùng phụ cận, những sách xuất bản của ông thường nổi tiếng về cả nội dung lẫn sự phiêu lưu mạo hiểm của ông trong khi làm nghiên cứu.
06/12/2020(Xem: 5828)
Đạo phật ngày nay đang xuyễn dương lối sinh hoạt của người con Phật là sống an nhiên tự tại trong hiện tiền. Lối sống được mọi người noi theo là tĩnh thức và hiện tại. Làm sao đạt được điều ấy? Và tại sao sống tĩnh thức và hiện tiền là chấm dứt khổ đau? Trong khi theo Phật dạy Tứ diệu đế thì tu tập diệt tận cùng lậu hoặc diệt khổ đau. Sống tĩnh thức là theo 4 y của Phật dạy: y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa. Sống hiện tiền là sống trong thiền định.
02/12/2020(Xem: 6170)
Bà Thái Việt Phan, người vừa được bầu vào Hội đồng Thành phố Santa Ana, đã sửng sốt khi nhận được thư cảnh báo từ từ ngôi già lam tự viện Phật giáo mà bà từng lui tới. Chùa Hương Tích đã bị xịt sơn và cảnh sát Thành phố Santa Ana đã coi đây là một tội ác gây ra bởi sự thù địch. Đây là ngôi tự viện Phật giáo thứ sáu bị xịt sơn trong khu vực chỉ trong tháng vừa qua.
02/12/2020(Xem: 9202)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Trong tâm tình: ''Lắng nghe để hiểu- Nhìn lại để thương'', chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi phát quà cứu đói cho 294 hộ tại 2 ngôi làng nghèo có tên là Dugarpur & Amobha cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Xin mời quí vị hảo tâm xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD.(Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người bảo vệ và sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
01/12/2020(Xem: 6475)
Cư sĩ Keith Dowman sinh năm 1945, gốc người Anh, tinh hoa Phật giáo, một vị giáo thụ giảng dạy Thiền Đại Viên Mãn (Dzogchen; 大圓滿), theo truyền thống Ninh Mã, Phật giáo Kim Cương thừa, Mật tông Tây Tạng, dịch giả các kinh điển Phật giáo Tây Tạng. Cư sĩ Keith Dowman đang cư ngụ tại Kathmandu, Nepal, nơi ông đã sống trong 25 năm. Các bản dịch của ông từ tiếng Tây Tạng.
30/11/2020(Xem: 5956)
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy Ta có thêm ngày nữa để yêu thương” Cảm ơn vì sáng nay tôi còn nghe được tiếng nói, tiếng cười của người thân, bạn bè. Nhìn xuyên qua khe cửa, lá trên cây đã bắt đầu đổi màu, biến những hàng cây xanh ngày nào thành một bức tranh hỗn hợp nhiều sắc màu. Vài cơn gió lành lạnh lại bắt đầu thổi về mang theo bao hồi ức vui buồn lẫn lộn. Tôi lặng lẽ ngồi đây như ngồi giữa thiên đường của thời xa xưa ấy. Tôi luôn biết ơn sâu sắc đến quý Phật tử xa gần đã hỗ trợ và đồng hành cho NVNY trong suốt chặng đường 5 năm qua. Nhất là những thiên thần đáng yêu tại Las Vegas, sớm hôm luôn bay về nâng đỡ cho Ni Viện khi cần. Năm 5 về trước, lần thứ tư tôi đặt chân đến đất nước xinh đẹp vĩ đại này. Tôi tận hưởng vẻ đẹp của những cánh đồng bất tận, nơi an nghỉ của ánh sáng mặt trời, nơi các đóa hoa tỏa hương thơm vào không gian; và tôi khám phá các ngọn núi tuyết cao sừng sững hiên ngang giữa trời đất, ở đó tôi tìm thấy sự thức giấc tươi mát của mùa Xuân, lòng kh
29/11/2020(Xem: 7193)
Cư sĩ Rob Nairn, vị Luật sư, Thẩm phán Trẻ tuổi nhất tại Rhodesia, Giáo sư Phật học uyên thâm, tác giả, nhà nghiên cứu dân số. Ông sinh ra và lớn lên tại Rhodesia. Ông là môn đồ của Phật giáo Kim Cương Thừa Mật tông Tây Tạng, thuộc dòng truyền thừa Karma Kagyu. Cư sĩ Rob Nairn, người đại diện cho Hòa thượng Tiến sĩ Akong Rinpoche tại Châu Phi (Chöje Akong Tulku Rinpoche,1939-2013, người sáng lập Tu viện Samye Ling Scotland), với trách nhiệm giảng dạy 11 Trung tâm Phật học tại bốn quốc gia Châu Phi. Mục tiêu của ông là giảng dạy thiền và Phật giáo Tây Tạng cho tất cả những ai yêu mến đạo Phật, cũng như ở cấp độ đại học và hậu đại học ở các quốc gia như Vương quốc Anh, Ireland, Châu Phi và Hoa Kỳ thông qua các trường Đại học và các Trung tâm Phật học.
28/11/2020(Xem: 5887)
Chàng vẫn thường chê tôi, chỉ giỏi phân tích sự kiện chứ không có đầu óc tổng hợp. Được rồi! Hôm nay tôi sẽ tổng hợp tất cả các bài Pháp của các Vị nói về đề tài nóng bỏng đang thiêu đốt các dân cư mạng, chỉ một bài hát thôi mà số người lướt sóng lên đến hàng chục triệu lần. Chẳng là gì cả, chỉ câu truyện tình liên quan đến chốn Thiền Môn, chàng là ông Thầy Tu, nàng là cô Quận Chúa. Thuở bé nàng vẫn thường theo cha đến Chùa, Tể tướng thì đàm đạo với Đại Hòa Thượng, tiểu thư "nhí" chơi đùa với "tiểu" Hòa Thượng, hay mua kẹo Hồ Lô tặng chú tiểu, cũng một loại "Tình yêu đi qua bao tử". Thế rồi thời gian thấm thoát thoi đưa, sau mười năm cặp đôi này trở thành một đôi trai thanh gái tú. Nàng đòi ở luôn trong Chùa, nhất định không chịu về, Chàng Thầy tu phải đuổi về vì phạm giới luật của một Chùa Tăng. Thế là Nàng ra đi để rồi mất dấu chân chim, một thời gian sau nghe tin Nàng tự vẫn vì bị tên Thái Tử háo sắc làm nhục.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]