Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mở cánh cửa tâm hồn bạn

06/05/201507:59(Xem: 8598)
Mở cánh cửa tâm hồn bạn



Buddha



Lời người dịch:

Đời sống là một chuỗi những câu chuyện xen lẫn nhau, không phải là những khái niệm. Khái niệm thì khác xa với sự thật. Do vậy, một câu chuyện được kết cấu với tình tiết phong phú và có ý nghĩa thì gần gũi với đời sống thực tế. 

 

Đó là lý do tại sao chúng ta dễ dàng liên hệ với đời sống qua các câu chuyện hơn là những lý thuyết trừu tượng. Và đó cũng là lý do mà thầy Ajahn Brahm - tu sĩ người Anh, Tu viện trưởng rừng thiền Bodhinyana và là Giám đốc hội Phật học Tây Úc - chọn cách giảng dạy, trình bày pháp thông qua những câu chuyện.

 Sự hiểu biết sâu sắc, tình thương yêu và lòng từ bi chảy xuyên suốt qua những câu chuyện của thầy Ajahn Brahm giống như những dòng sông của nguồn hy vọng; nó khéo léo trong việc liên hệ đến lời dạy của đức Thế Tôn và con đường đạt được hạnh phúc thật sự.  

 

Mỗi câu chuyện kể, ẩn chứa bên trong nó là bài học về chánh niệm, trí tuệ và từ bi - những yếu tố nền tảng của Phật giáo. “Sự thật” bên trong mỗi câu chuyện sẽ được khám phá qua chính kinh nghiệm trong đời sống của mỗi chúng ta.

Chúng tôi sẽ lần lượt chuyển ngữ để giới thiệu đến bạn đọc. Mong rằng tất cả chúng ta sẽ mở cánh cửa lòng mình ra để đón nhận nó.

***
Cách đây vài thế kỷ, có 7 vị tăng nọ cùng sống trong một hang động, trong một khu rừng rậm ở châu Á, hành thiền với đề mục về tâm từ. Vị tăng trưởng nhóm, anh trai và người bạn tốt nhất của ông ta. Vị thứ tư là người đối đầu với vị tăng trưởng nhóm; họ luôn bất đồng về quan điểm. Vị thứ năm là vị tăng già nua, quanh năm ông ta chờ đợi sự chết đến gõ cửa bất kỳ lúc nào.Vị thứ sáu thì bệnh hoạn, cái chết cũng luôn chờ sẵn. 

Vị cuối cùng, vị thứ bảy, là một người vô tích sự. Ông ta luôn ngáy khi hành thiền, cũng không thể nhớ lời kinh tụng, và nếu ông ta tụng thì rất lạc điệu; thậm chí ông ta cũng không thể cất giữ những chiếc y của mình cho ngăn nắp tề chỉnh. Tuy nhiên, những người khác thì khoan dung với ông ta và đã cảm ơn ông ta đã dạy cho họ lòng nhẫn nại.

Một ngày kia, có băng cướp nọ khám phá ra hang động. Nó rất cách biệt và là nơi ẩn núp tốt, vì vậy chúng muốn chiếm lấy để làm sào huyệt, đó cũng là lý do chúng quyết định giết tất cả các vị tăng.

May mắn thay, vị tăng trưởng nhóm là một diễn giả có tài thuyết phục. Ông ta đã giải quyết được - đừng hỏi tôi phải làm thế nào để thuyết phục bọn cướp, ngoại trừ một người, người mà sẽ bị giết để cảnh báo cho những người khác là không được cho bất kỳ ai biết địa điểm của hang động. Đó là điều duy nhất mà ông ta có thể làm. Vị tăng trưởng nhóm lặng yên trong vài phút và đã đưa ra một quyết định đáng kinh sợ - ai sẽ là người hy sinh để những người khác được tự do ra đi.

Khi tôi kể câu chuyện này trong hội chúng, tôi ngừng lại ở đây để hỏi những thính giả của tôi: “Thế nào, các bạn nghĩ ai là người mà vị tăng trưởng nhóm đã chọn?”

Câu chuyện dừng lại trong giây lát cho một vài thính giả của tôi đang từ trạng thái ngủ gà ngủ gật trong suốt buổi thuyết giảng và nó đã đánh thức những người đang ngủ. Tôi nhắc lại với họ rằng, có một vị tăng trưởng nhóm, người anh trai, người bạn tốt nhất, người đối đầu, vị tăng già nua và vị tăng bệnh hoạn (cả hai đều đang chờ chết) và vị tăng vô tích sự. Các bạn nghĩ ai là người ông ta chọn?

Sau đó một vài thính giả đề nghị là vị tăng đối đầu. Tôi trả lời là “không”.

- “Anh trai ông ấy?”
- “Sai”

Vị tăng vô tích sự luôn luôn được đề cập - chúng ta thật là không nhân đức! Ngay lập tức, tôi đã đùa một tí, tôi tiết lộ câu trả lời: vị trưởng nhóm đã không có khả năng để chọn lựa. Tình yêu thương của ông ta đối với anh trai thì cũng giống như tình yêu thương ông ta đối với người bạn tốt, không hơn không kém; tình yêu thương của ông ta đối với người bạn tốt cũng giống y hệt với tình yêu thương của ông ta dành cho người đối đầu, cho vị tăng già nua, vị tăng bệnh hoạn, và thậm chí là cho vị tăng vô tích sự dấu yêu. 

 

Ông ta đã tuyệt vời trong câu nói đầy ý nghĩa: “Cánh cửa lòng tôi sẽ luôn mở để đón bạn, dù bạn làm gì, bạn là ai". Cánh cửa tâm hồn của vị tăng trưởng nhóm đã rộng mở cho tất cả, không điều kiện, không phân biệt; đó là tình yêu thương chân thật tự bản chất.

Và điều thấm thía nhất là tình yêu thương của ông ta đối với người khác thì bình đẳng như đối với chính ông ta. Cánh cửa tâm hồn ông ta mở ra cho chính ông ta cũng y như vậy. Đó là lý do tại sao ông ta không thể chọn lựa giữa chính ông ta và những người khác.

Tôi nhắc Jadaeo - một người đạo Cơ Đốc - thính giả của tôi rằng, những cuốn sách của họ đã nói “yêu người láng giềng của anh như chính bản thân anh”. Không có cái gì hơn và cũng không có cái gì kém thua bạn; nó bình đẳng với chính bạn. Điều này có nghĩa là hãy yêu mến người khác như người đó sẽ yêu mến chính họ, và hãy yêu mến chính bản thân mình cũng như sự yêu mến đối với người khác.

Tại sao phần lớn trong hội chúng của tôi đã nghĩ rằng, vị trưởng nhóm sẽ chọn chính ông ta để chịu chết? Tại sao như vậy? Trong văn hóa của chúng ta, chúng ta luôn luôn hy sinh chính bản thân chúng ta cho người khác, và đây là điều vẫn có giá trị?

Tại sao chúng ta lại quá khắt khe, phê phán và trừng phạt chính chúng ta hơn ai khác? Đó là một và cùng một lý do: chúng ta chưa học được cách yêu thương chính chúng ta.

Nếu bạn gặp phải khó khăn để nói với người khác “cánh cửa lòng tôi luôn mở để đón bạn, dù bạn làm gì, bạn là ai”. Sau đó điều khó khăn này sẽ là chuyện vặt vãnh khi so sánh với khó khăn mà bạn sẽ đối mặt để nói với chính bạn: “Tôi, một người đã sống quá khép kín quá lâu rồi, lâu đến nỗi mà tôi không thể nhớ ra được. Chính tôi. Cánh cửa lòng tôi thì mở ra cho tôi cũng như vậy. Tất cả, dù sao đi nữa, tôi đã làm. Hãy vào đi.”

Đó là lý do tại sao tôi nói rằng tình yêu thương đối với chúng ta nó được gọi là lòng bao dung. Nó sẽ là nấc thang tự do từ tù ngục của mặc cảm tội lỗi; nó là sự bình yên ở nơi mỗi chúng ta. Và nếu bạn có can đảm để nói những lời này với chính bạn một cách chân thật, trong sâu thẳm tâm hồn của bạn, khi đó tâm bạn sẽ hướng thượng, không tụt lùi, để đón nhận tình yêu thương cao cả.

Mỗi ngày, tất cả chúng ta phải nói với chính mình những lời này, hoặc một câu gì đó tương tự, nói với sự thành thật, không phải là một trò chơi ngôn ngữ. Khi chúng ta làm, nó như thể là một phần của chính chúng ta, điều mà không thể không chấp nhận; đời sống bên ngoài thì lạnh lẽo quá lâu rồi, bây giờ hãy trở về nhà. 

 

Chúng ta cảm thấy tất cả được hợp nhất và tự do để hạnh phúc. Chỉ khi chúng ta yêu thương chính chúng ta như mức độ có thể, thì chúng ta mới hiểu được nó thật sự có ý nghĩa gì với yêu thương người khác, không hơn không kém.

Và vui lòng nhớ rằng, bạn không phải hoàn hảo, không lỗi lầm, để mà có thể yêu thương chính bạn. Nếu bạn chờ đợi một sự hoàn hảo, nó sẽ không bao giờ đến. Chúng ta phải mở cánh cửa tâm hồn mình, dù chúng ta đã làm gì! Một khi vào bên trong, khi đó chúng ta hoàn hảo.

Người ta thường hỏi tôi điều gì xảy ra với 7 vị tăng đó khi mà vị trưởng nhóm đã nói với bọn cướp rằng ông ta không thể chọn lựa. Câu chuyện, như tôi đã được nghe cách đây nhiều năm, đã diễn đạt: “Nó dừng lại ngay nơi mà tôi đã chấm dứt.”

Tôi biết điều gì xảy ra tiếp theo; tôi hình dung được điều gì xảy ra sau đó. Khi vị trưởng nhóm giải thích với bọn cướp rằng ông ta không thể chọn lựa giữa ông ta và người khác, nó đã gián tiếp chỉ ra ý nghĩa của tình yêu thương và lòng bao dung giống như tôi vừa mới trình bày với các bạn, sau đó tất cả bọn cướp đã xúc động và nó đã thôi thúc họ, không chỉ khiến họ để cho các vị tăng sống, mà chính họ cũng đã cải tà quy chánh và trở thành những tu sĩ.

Thích Nữ Khánh Năng dịch

(Nguyên tác: “Opening the Door in Your Heart and others Buddhist tales of Happiness”, Ajahn Brahm, Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2021(Xem: 4373)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9301)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5825)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7143)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5824)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 6425)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6446)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5596)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3933)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 4024)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]