Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Con đường của người Phụ Nữ

10/04/201512:05(Xem: 10608)
11. Con đường của người Phụ Nữ
TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN 
TENZIN PALMO và CUỘC SUY TẦM CHÂN LÝ 
Nguyên tác : Cave in The Snow Tenzin Palmo and The Quest For Enlightenment 
Tác Giả: Vickie Mackenzie - Người Dịch: Thích Nữ Minh Tâm


CHƯƠNG MƯỜI MỘT  

CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ 
  
Mọi người đã đánh giá sai về Tenzin Palmo. Người phụ nữ mảnh khảnh, mắt xanh này của phố thị Bethnal Green, Anh Quốc, không dễ gì chịu thua hay bị các trở ngại khuất phục, làm nản chí. Cô đã sống sót trong động tuyết qua những trận thử lửa kinh hồn, và hiên ngang an nhiên tiếp tục con đường đạt tới Chân Lý Tối Thượng của cô qua hình tướng một người nữ. Cô vẫn kiên gan quyết tâm thực hiện lời thệ nguyện của mình "Thành Phật trong hình tướng một người nữ". Trái tim cô thật sắt đá, nghị lực cô thật phi thường, ý chí cô thật bền vững, nhưng dù sao đi nữa, Tenzin cũng cần nương tựa vào hay noi theo gương các bậc nữ đạo sư còn sinh tiền để khuyến khích ủng hộ nhau khi cần thiết trên bước đường tu tập. Tenzin chỉ có một mình, không thầy, không bạn. Ngay cả một ý nghĩ hay lời nói hướng dẫn của các nữ đạo sư cũng không có, để cho Tenzin có thể mường tượng được trí tuệ xuất chúng của người nữ khi chứng đắc ra sao? Thực sự, cô chẳng biết gì về các nữ đạo sư đương thời.  
  
Qua kinh sách Phật giáo Tây Tạng, Tenzin chỉ biết các vị nữ Bồ Tát như nữ thần Tara với nụ cười từ bi, trong dáng ngồi co một chân trên tòa sen, sẵn sàng ứng hiện cứu giúp chúng sinh. Tenzin đã cầu nguyện trì tụng danh hiệu Tara rất nhiều lần để chúc phúc lại cho dân làng Lahoul khi cô đi khất thực xung quanh làng. Người Phật tử Tây Tạng rất sùng bái Bồ Tát Tara. Khi gặp phải những sự cố bất an, lo sợ, hay đau khổ, họ luôn luôn cầu nguyện Tara đến giúp đỡ cứu thoát cho họ, vị nữ thần Tara nghe tiếng chúng sanh kêu khổ và đến cứu giúp tức thì. Ngài là biểu tượng của Từ Bi và Hùng lực. Được biết nữ thần Tara được hóa sanh từ những giọt nước mắt xót thương chúng sanh của Đức Phật Chenrezig. Đức Phật đã thấy các nỗi khổ triền miên của chúng sanh và muốn giúp chúng sanh thoát khỏi khổ đau bằng cách cho nữ thần Tara hóa thân ra giúp đỡ. Cũng được biết là nữ thần Tara đã phát nguyện sẽ chứng đắc quả vị Phật trong hình tướng một người nữ.  
  
Người dân Tây Tạng còn thờ phượng nữ thần đầy quyền năng Vajrayogini với toàn thân bao bọc trong vòng tròn ánh sáng lửa rực đỏ. Với bản tánh độc đoán, hăng say, mạnh mẽ, linh hoạt, Vajrayogini là biểu tượng một người nữ độc quyền cai trị lãnh thổ riêng của nàng. Trong số các nữ thần Mật Tông, Vajrayogini tự mình ngài lo liệu mọi việc và cầm quyền cai trị, không cần người chồng hay phụ tá giúp đỡ. Hơn thế nữa, Vajrayogini còn mang người tình bí mật của nàng đi theo khắp nơi như là một dụng cụ lủng lẳng trên vai, và sẵn sàng dùng phép biến hóa vật đó thành người đàn ông để tùy nghi sử dụng trong mọi trường hợp cần thiết.  
  
Tín đồ Phật giáo Tây Tạng còn tôn thờ sùng bái Đức Bồ Tát Quán Thế Âm với lòng bi mẫn nghe tiếng kêu khổ liền hiện thân ra cứu giúp; họ cũng thờ Bát Nhã Ba La Mật Đa, Mẹ của chư Phật, ngồi oai vệ lẫm liệt trên ngai vàng hoa sen, rực sáng hào quang trí tuệ và bi mẫn.  
  
Các nữ Bồ Tát này mãi mãi là biểu tượng tôn thờ sùng bái và kính ngưỡng của toàn dân Tây Tạng khi hạnh phúc cũng như khi hoạn nạn quyền biến.  
  
Nhưng, thực tế hơn, lịch sử Phật giáo Tây Tạng đã chứng minh về những thành quả chứng đạt của một số ít phụ nữ đã sống tại vùng núi tuyết này và đã can đảm kiêu hùng vượt qua hàng rào trở ngại bước tiến giới nữ của chế độ phong kiến phân biệt của xã hội Tây Tạng ngày xưa, để từ đó tên tuổi họ đã đi vào huyền thoại lịch sử như mặt trời rực sáng không bao giờ tắt.  
  
Các phụ nữ này rất kiên cường bất khuất. Có thể nói, họ là biểu tượng nữ anh hùng cho mọi thời đại. Sống trong một chế độ xã hội bất công, phong kiến, nặng đầu óc phân biệt nam nữ, họ đã trí dũng chiến đấu phản kháng lại những tập tục lề thói cũ rích đã đè nặng lên vai, lên cổ người phụ nữ như cái gông, cái ách, cái cùm xiềng xích phụ nữ vào xó bếp đời đời. Họ đã nhóm bùng lên bó đuốc "Cách Mạng Nữ Giới" và trí tuệ hơn nữa, họ đã xả thân tu tập không ngừng nghỉ để chứng đạt Giải Thoát Trí Tuệ. Những hành động phi thường đó đã trở thành truyền thuyết dân gian, và đứng vững như thành đồng của sự Kiên Trì, Bất Khuất, Niềm Tin, và Quy Ngưỡng.  
  
Người nổi tiếng nhất trong số ít các phụ nữ tiên phong đó là Yeshe Tsogyel, còn được biết đến qua danh hiệu "Vũ Công trên không gian". Sanh ra năm 757 sau Công Nguyên trong một gia đình qúi tộc, Yeshe Tsogyel từ thuở bé đã cho thấy nàng có những tín hiệu trí tuệ thiêng liêng khác thường. Nàng cũng đã tuyên bố sẽ thành Phật trong một đời hiện tại mà thôi. Với tư tưởng đó, nàng đã từ chối mọi lời cầu hôn để đi đúng con đường mình đã chọn. Sau nhiều thăng trầm thử thách, nàng tình cờ gặp được vị cứu tinh của đời nàng, Ngài Padma Sambhava, người đầu tiên đã mang và truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ vào lãnh thổ Tây Tạng, và cũng đã trở thành biểu tượng "Phật Sống" đối với toàn dân tín đồ Phật giáo Tây Tạng.  
  
Padma Sambhava không những chỉ là vị cố vấn, vị thầy hướng dẫn tâm linh mà đối với Yeshe Tsogyel, Ngài còn là người yêu tối thượng tâm linh bí mật của riêng nàng. Yeshe Tsogyel đã yêu say đắm Padma Sambhava, đồng thời cũng kính trọng tôn sùng Ngài. Tình yêu của nàng đã thể hiện qua ẩn dụ sau: 

"Với lòng trong sáng và kính ngưỡng, tôi, Yeshe Tsogyel, đã kết một tấm mạn đà la huyền bí để dâng lên đạo sư Padma Sambhava của tôi. Nụ cười rạng rỡ và từ bi của Ngài chiếu sáng như hào quang ngũ sắc khiến các ánh sáng khác mờ nhạt đi và hòa tan vào hào quang đó, chan hòa trên toàn thân Ngài, kết thành một tòa sen hồng đỡ bước chân Ngài trong điệu nhạc từ ái muôn đời của vũ trụ."  
  
Nhưng, dù yêu say đắm Padma Sambhava, Yeshe Tsgyel vẫn không quên mục đích tu tập của mình và đã khẩn cầu Padma Sambhava hãy dạy cho nàng Lý Nhân Quả để làm pháp môn thiền quán. Yeshe đã đi vào tận rừng sâu núi thẳm, chịu đựng gian khổ, đói rét, dãi dầu với nắng táp mưa sa. Nàng đã ăn tất cả những gì có thể ăn được ở núi rừng đến nỗi sau đó, nàng đã tập "ăn không khí" và gầy ốm đến nỗi xương trán lồi hẳn ra ngoài - nhưng Yeshe vẫn kiên gan chịu đựng. Cuối cùng, sự quyết tâm kiên trì đó của nàng đã được tưởng thưởng xứng đáng với sự chứng đạt giải thoát.  
  
Chính những lời nói của Yshe đã được chép lại bởi người viết hồi ký tiểu sử của nàng, Taksham Nuden Dorje, và sau đó được Keith Dowman dịch ra trong quyển "Vũ Công trên không gian" (Sky Dancer) của ông ta để diễn tả trạng thái sung mãn tuyệt đỉnh khi chứng đắc của Yeshe Tsogyel do công phu khổ hạnh tinh cần tu tập: "Tôi đã biến hóa tan hòa vào khối tinh thể của vũ trụ để thấm nhuần đặc tính linh huyền của Chân Không Diệu Hữu, và tôi đã đạt được khả năng tuyệt đối để ứng xử mọi diệu dụng của chư Phật."  
  
Yeshe Tsogyel đã hóa hiện khắp nơi để cứu giúp che chở dân Tây Tạng với lòng từ bi, trí tuệ, và quyền năng vô biên của nàng. Nàng có thể đi xuyên qua những vật rắn chắc như tường vách, núi đồi, cỡi lên ánh sáng của mặt trời, hay bay lơ lửng trên không trung. Có lần, nàng đã cứu sống trở lại con trai của một thưong gia người Nepal bằng cách chỉ ngón tay trỏ ngay tim người chết cho đến khi trái tim hắn đập trở lại và máu bắt đầu lưu thông trong cơ thể. Nhưng, lần thi thố pháp thuật trước phái Bon, (một giáo phái cổ Tây Tạng rất giỏi về pháp thuật) Yeshe đã đánh bại hoàn toàn các pháp sư của giáo phái này và thu phục nhân tâm hoàn toàn. Trong tư thế ngồi kiết già trên hoa sen bay lơ lửng trên không trung, Yeshe đã biến hóa lửa phun ra từ mười đầu ngón tay, bao phủ toàn vùng trong khối lửa đỏ rực và lại biến lửa thành thành những sợi mềm như bơ vẽ lên trời hàng vạn hình ảnh khác nhau. Sau cùng, nàng phóng những tia sấm sét dữ dội vào đám tà sư phù thủy của phái Bon khiến chúng kinh hồn bạt vía. Dân chúng và cả đám tà đạo đó đã bị thâu phục, cải hóa hoàn toàn. Họ tin rằng chỉ một người nữ đắc đạo như Yeshe Tsogyel mà còn giỏi như vậy, huống chi là Đức Phật thì còn xuất chúng đến đâu nữa.  
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 5592)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê, Ngài giữ trong tim một bộ kinh biểu tượng của việc thấy tất cả mọi thứ như chúng là, Người dạy trong sáu mươi cách, với lòng từ bi yêu thương của một từ thân với đứa con duy nhất, Đến tất cả các tạo vật bị giam trong tù ngục của luân hồi, Bối rối trong bóng tối của si mê, tràn ngập bởi khổ đau của họ.
03/07/2021(Xem: 16163)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3754)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6138)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6325)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 4028)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8379)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5661)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15696)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10884)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]