Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bồ-tát không giúp gánh nghiệp cho người khác

08/04/201508:19(Xem: 9235)
Bồ-tát không giúp gánh nghiệp cho người khác

Quan Am Quang Duc


Bồ-tát không giúp gánh nghiệp cho người khác
Tổ Tư Vấn Báo Giác Ngộ

HỎI: Có một chị bạn rất kính tin Bồ-tát Quán Thế Âm nói với tôi rằng: Khi mẹ của chị bệnh nặng, tưởng chừng như sắp mất, chị ấy đã khấn vái, cầu xin Bồ-tát hãy cứu mẹ và chị chấp nhận chịu giảm đi 10 năm tuổi thọ của mình để cho mẹ được sống. Và thật là mầu nhiệm, mẹ chị ấy đã được Bồ-tát cứu giúp, không chỉ khỏi bệnh mà còn sống thêm vài năm nữa mới mất. 

Chị rất vui về hạnh hiếu này dù đã mất đi 10 năm tuổi thọ. Tôi cũng kính tin Bồ-tát nhưng không chấp nhận việc Ngài sẽ giúp ai đó “chịu giảm thọ để cho người khác sống lâu thêm” vì ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc, không ai có thể chịu tội hay gánh nghiệp thế cho ai. 

Vậy trong trường hợp của chị ấy thì giải thích như thế nào, nhờ Bồ-tát linh ứng, hay nhờ người con đã gánh bớt nghiệp cho mẹ?

(THÀNH ĐỨC, [email protected])

ĐÁP:

Bạn Thành Đức thân mến!

Chúng ta đều biết, năng lực cứu độ của Bồ-tát Quán Thế Âm là không thể nghĩ bàn. Do đó cần thận trọng khi bàn về sự linh ứng và mầu nhiệm trong việc cầu nguyện Ngài. Có những điều xảy ra vượt ngoài hiểu biết và suy nghĩ của mình nhưng cũng không vội vàng phủ nhận hay quy kết là mê tín. Ngược lại, cũng cần tỉnh táo suy xét để thấy rõ mối liên hệ duyên khởi và tương quan nhân quả trong mọi sự vật hiện tượng, dù hiện tượng đó được cho là linh thiêng.

Việc chị bạn ấy trong lúc nguy khốn đã cầu xin Bồ-tát cứu giúp và có linh ứng nhiệm mầu là một sự thật. Điều đáng ghi nhận ở đây chính là lòng hiếu đạo chí thành, dám hy sinh một phần tuổi thọ của bản thân để đổi lấy sự sống và bình an cho mẹ. Có thể nhờ tâm chí thành và chí hiếu mãnh liệt ấy nên được Bồ-tát cảm ứng, gia hộ. Và dĩ nhiên, Bồ-tát sẽ cứu độ bằng cách riêng của Ngài chứ không phải đem 10 năm tuổi thọ của người con để thế chấp và chuyển sang người mẹ nhằm giúp mẹ sống lâu hơn. 

Nên chắc chắn rằng, dù người con có cầu khấn nguyện chịu giảm thọ để cầu an cho mẹ nhưng không vì thế mà tuổi thọ của người con bị giảm, ngược lại có thể tăng thọ vì nhờ hiếu đạo nên phước báo được tăng thêm.

Mặt khác, sự cầu nguyện của người con có kết quả nhiệm mầu là nhờ trùng hợp với nhân-duyên-quả sống còn của người mẹ. Nói theo cách dân gian, cho đến khi ấy người mẹ vẫn “chưa hết số”. Bởi khi thọ mạng đã hết, tử nghiệp đã chín muồi thì có cầu nguyện Bồ-tát hay bất cứ vị nào cũng không thể xoay chuyển tình hình. Nên dù ai có thần lực linh thiêng đến mấy cũng không thể làm cho một người sống lại lúc tử nghiệp đến, vì như thế là trái với nhân quả, mà nhân quả-nghiệp báo mới thực sự có thần lực vĩ đại nhất.

Mặc dù chị bạn ấy tuyệt đối tin tưởng vào năng lực gia hộ mầu nhiệm của Bồ-tát, nhưng theo tinh thần Chánh kiến thì sự linh ứng ấy xảy ra nhờ các duyên lành hội đủ. Các duyên lành ấy bao gồm: Tâm hiếu đạo chí thành cầu nguyện, được Bồ-tát cảm ứng gia hộ, và quan trọng nhất là phước đức về thọ mạng của người mẹ ấy vẫn còn... Chính điều này mới lý giải được vì sao có người cầu an cho cha mẹ được linh ứng như nguyện nhưng có người lại không. Bồ-tát dù có thần lực không thể nghĩ bàn cũng chỉ dự phần vào tiến trình nhân-duyên-quả của chúng sinh như là một duyên lành chứ không toàn quyền quyết định việc sinh tử của con người.

Người đệ tử Phật cần hiểu rõ và vững tin vào sự vận hành nhân-duyên-quả của các pháp qua tương tác “trùng trùng duyên khởi”. Không có cái gì xảy ra chỉ với một nhân hoặc một duyên. Đặc biệt là không có đấng thiêng liêng toàn năng nào chi phối và định đoạt tất cả. Các pháp vận hành theo quy luật nhân duyên sinh. Chính sự thấy biết với tuệ giác này sẽ giúp chúng ta đến gần với chân lý, hiểu rõ sự thật hơn để tránh xa tà kiến và mê tín dị đoan, sống và hành xử trong tinh thần chánh kiến.

Nên tuyệt đối tin tưởng vào Bồ-tát là tốt, nhưng niềm tin ấy cần song hành với hiểu và học theo hạnh của Ngài. Bồ-tát Quán Thế Âm là biểu trưng của hạnh nguyện từ bi, ban vui và cứu khổ. Học theo hạnh Ngài là sống hiểu và thương, lắng nghe và chia sẻ, luôn nỗ lực để mình và người đều lợi ích, an vui. 

Chúc bạn tinh tấn!

TỔ TƯ VẤN
([email protected])
Ý kiến bạn đọc
04/06/201911:31
Khách
Con có được nghe một vị ni sư giảng rằng ko nên mặc quần áo cũ của người khác vì như thế là mình gánh nghiệp thay người ta.Nhưng theo con được biết Đức Phật có dạy nghiệp ai nấy trả,quả ai người nấy mang. Con thấy rất mông lung kính xin giải đáp cho con.
07/04/201522:50
Khách
Nam Mo Dai Tu Dai Bi Quan The Am Bo Tat__((()))__
Kinh Bach Thay"
Con da duoc Thay giai thich cho con rat ro ve Hanh Nguyen Cua Ngai Quan The Am Bo Tat. Tu truoc den nay con van chua hieu ro Hanh Nguyen Cua Ngai voi tam long Hieu Thao va Tha Thiet nhu vay se duoc Ngai do. Con xin tri an Thay" Con kinh chuc Thay Than Tam An Lac Va Phat Su Vien Thanh.
Con PT Thanh Duc
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/02/2021(Xem: 6058)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4414)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9342)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5866)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7201)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5863)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 6446)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6466)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5612)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3939)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]