Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thương nhớ thi sĩ Bùi Giáng

29/03/201317:28(Xem: 6649)
Thương nhớ thi sĩ Bùi Giáng

Thương nhớ Thi sĩ Bùi Giáng

Sa môn Thích Đức Nhuận



Thầy Chỉnh Tuệ, sư cô Trí Hải và một số thi văn hữu định làm một tập văn về cố thi sĩ BÙI GIÁNG. Chỉnh Tuệ biết Bùi Giáng thường tới thăm tôi nên đã ngỏ ý xin tôi viết ít dòng tưởng niệm?

Cách đây vừa tròn ba mươi năm (1968-1998), anh Huy Trâm? Nguyễn Hồng Nhuận Tâm, lúc ấy làm thẩm phán ở Gò Công, đón tôi tới nhà anh chơi, thì thi sĩ Bùi Giáng cũng đến Gò Công và nghỉ lại đây một tối; lần đầu tiên, tôi gặp Bùi Giáng, nhân một đêm trăng sáng, chủ nhân cho kê bàn ghế ngoài sân, rồi ba chúng tôi cùng ngồi uống trà, ngắm trăng, Bùi Giáng khẩn khoản yêu cầu tôi nói kinh Hoa Nghiêm cho ông nghe. Do đấy, tôi đã giảng về nội dung triết lý kinh Hoa Nghiêm ? bộ kinh lớn của đại thừa Phật Giáo gồm 80 cuốn ? Bùi Giáng tỏ ra am hiểu và tâm đắc lắm! Khi trở về Sài Gòn, ông thường tới thăm tôi ở chùa Giác Minh, có thể là nói hàng tháng.

Ông hay lang thang ngoài đường phố với y phục rất kỳ dị nên bất cứ ai mới nhìn thấy cũng cho ông là điên khùng?, nhưng điều lạ lùng là mỗi khi cùng tôi đàm luận thì ông rất bình tĩnh và tỉnh táo, ông, bề ngoài tuy thế mà chiều sâu của tâm- thức Bùi Giáng thì thật là trong sáng!

Tôi nhớ, khoảng những năm một 1977-1980, có lần, ông bày tỏ muốn xin tôi đi tu ? Tôi thưa: Hoàn cảnh lúc này chưa thuận lợi, vấn đề "hộ khẩu" là một cản trở lớn, ta hãy chờ một dịp khác vậy. O�ng im lặng. Nhưng tôi biết Bùi Giáng buồn, tuy không nói ra. Thật tội nghiệp cho một tâm hồn cao thượng muốn nương thân nơi cửa Phật để nuôi dưỡng cho tâm tịnh, thân an, mong điều hòa cuộc sống mà suốt mấy mươi năm ông đã gặp nhiều nỗi gian truân, cay đắng của kiếp nhân sinh. Thầy Mạnh Tử xưa nói: "Khi trời sắp trao vận lớn cho ai, thì bắt người đó phải khổ cực, ruột héo gan mòn, thiên ma bách chiết, ngày quên ăn đêm quên ngủ, để thử� chí người đó có bền gan sắt đá chịu đựng nổi những nỗi đắng cay của cuộc đời để làm tròn trách nhiệm mà sứ mệnh đã trao cho người ấy". Nói như Mạnh Tử nói (cũng có nghĩa là) tôi mong cho sự nghiệp văn chương của Bùi Giáng hằng sống mãi với không và thời gian và với núi sông dằng dặc.

Ngày 6 tháng 8 năm 1985, tôi bị nhà cầm quyền CS bắt về tội "tổ chức chống cách mạng". Kể từ đó, Bùi Giáng và tôi xa nhau suốt 9 năm trời đằng đẵng? Khi nhà nước cộng sản trả tự do cho tôi, chiều ngày 22 tháng chạp năm Quý Dậu (1993) thì, ba ngày sau sáng sớm này 25, Bùi Giáng tới và viết tặng bài thơ mừng tôi đã thoát nạn, nguyên văn:

"Trận đầu ký thác Rừng Thiêng

Sông xa ở lại cơn phiền dây dưa

Rải lên đường cỏ mộng thừa

Về thăm Viễn phố tin vừa mới dâng

Nắng hồng trẫm triệu phân vân

Bấm cung lục ngạn thành thân mối buồn

Cập bờ phỉ thúy đúc un

Tầm sương sái diện ?"quên nguồn hóa sinh"

Bùi Giáng - 1993

Riêng có điều tôi ân hận là, trong thời gian Bùi Giáng bị đau, nằm điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy, tôi không được biết để tới thăm và an ủi ông, mãi khi linh cữu (đã) do thân tộc họ Bùi đưa về quàn tại Nghĩa Đường chùa Vĩnh Nghiêm thì tôi và mấy thầy , cũng là bạn thân của ông, mới biết tới dâng hoa kính viếng và cầu nguyện cho anh hồn thi sĩ Bùi Giáng, nhờ ơn Đức Phật từ bi cứu độ, sớm siêu sinh cõi Tịnh.

Bùi Giáng đã ra đi vào cõi thiên thu vĩnh biệt, thân ngũ uẩn trả về cho cát bụi:

Bỏ trăng gió lại cho đời

Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa?

(Mắt buồn - Mưa nguồn)

Nhưng trên tinh thần tư tưởng nhà thơ thì thật sáng láng bao la, dù biết trần gian này là phiền não, tối tăm, khổ đau mà vẫn vui vẻ NGUYỆN đi vào cõi người:

Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi

Vì nơi đây sống đủ vui sầu

(Phụng Hiến-Bùi Giáng)

Tôi tin tưởng thi sĩ BÙI GIÁNG vẫn sống hoài trong tâm thức chúng ta. Và dưới đây, xin có câu đối kính viếng anh hồn thi sĩ BÙI GIÁNG chứng tri:

Nghe tin Bùi thi sĩ ra đi

Ngày tháng Rong Rêu

Cuối hạ Mưa Nguồn

Thần trí bay về cõi Phật;

Chợt nhớ bậc tài hoa lúc sống

Nắng mưa dầu dãi

Ngàn Thu Rớt Hột

Bút nghiêng bỏ lại cuộc đời.

---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4716)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5022)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4512)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3746)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7555)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4745)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6176)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12153)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5352)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]