Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tư lương về Tịnh Độ

24/12/201404:25(Xem: 8047)
Tư lương về Tịnh Độ

duong ve tinh do-4

Vị khách Tăng được mời đến đạo tràng Thọ Bát Quan Trai của chùa Linh Thứu trong khóa tu mùa đông năm nay, không ai xa lạ, đấy là Thầy An Chí đến từ xứ Na Uy nơi biệt danh là xứ lạnh tình nồng, lạnh đến nỗi chỉ ăn kem ngoài trời mới cảm thấy ấm áp mà thôi.

Đây là lần thứ tư hay năm gì đó Thầy đến truyền giới (vì hình ảnh lưu trữ trong trang web của chùa Linh Thứu bị dán đoạn ở năm 2008, nên tôi chỉ đếm được từ năm 2007 đến 2011 có bốn lần), hóa ra Thầy là vị khách Tăng thuộc diện “đến hẹn lại lên“, cứ trời sắp lạnh cóng hay đổ tuyết là các giới tử đã lo sửa soạn hành trang túi ngủ thật dày lên chùa Thọ Giới. Lần này số giới tử tham dự vượt chỉ tiêu trên 70 vị ngồi chật cả Chánh Điện, đặc biệt là các em bé nam nữ rất dễ thương trong chiếc áo tràng, cười nhe cả hàm răng sún.

Phần tôi chắc tích lũy được nhiều phước đức từ bao đời trước, nên lần Thọ Bát nào do Thầy hướng dẫn cũng có mặt tôi. Mặc dù lần này tôi đã vượt qua hai chướng ngại là cảm cúm trước một tuần và từ chối buổi tiệc liên hoan tất niên với các bạn bè cũ. Nếu phải lựa chọn cuộc vui ngoài đời ta nên chọn sự tu tập. Ôi, bài bản này sao Thầy nào cũng cho vào điệp khúc!

Trước khi đi vào đề tài chính “Tư lương mang theo về Tịnh Độ“ một bài Pháp sôi nổi, xen lẫn những chất liệu ma quái vô hình làm nổi da gà những giới tử vẫn còn nhận ma làm bạn cỡ… như tôi. Xin được sơ qua vài dòng về “thân thế và sự nghiệp“ của thầy An Chí. Thầy xuất thân từ vùng đất của anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và môn võ Bình Định lừng danh, nhưng do nghiệp duyên lành dẫn dắt Thầy đi thẳng vào cửa Không lúc còn trẻ, không ngang dọc chốn giang hồ nên người ít lấm bụi trần. Sự nghiệp của Thầy bắt đầu từ lúc sang định cư cùng sư phụ tại Na Uy. Vị sư phụ của Thầy là một Cao Tăng thuộc hàng Pháp Sư - hàng tà ma trừ yêu quái, chuyên niệm Thần Chú và bắt ấn trừ tà. Tôi đã được tham dự nhiều buổi chuẩn tế trên thuyền vớt vong của sư phụ Thầy ở Oslo (1999) và ở Chùa Hannover (2000), nên rất tin vào những lời giảng mang nhiều tính chất huyền bí trong thế giới tâm linh.

Thầy An Chí đang theo bước chân của sư phụ mình để hóa độ những hương linh được ký tự tại Chùa hay những vong hồn uổng tử vất vưởng mọi nơi, mau chóng được vãng sanh. Thôi, tôi phải đi ngay vào bài Pháp nói về cái nhìn trung thực của pháp môn Tịnh Độ mà Thầy muốn gửi gấm cho các giới tử của chùa Linh Thứu, nổi tiếng siêng năng niệm hồng danh A Di Đà Phật. Độ người sống cho họ tu hành tinh tấn, đi đúng đường niệm Phật thù thắng để tiến thẳng về Tây Phương.

duong ve tinh do

Bài giảng của Thầy tất cả đều dựa theo giáo pháp của Đức Phật, tôi chỉ là người sao chép lại tuy chưa dám dùng câu Như thị ngã văn, nhưng cũng cố gắng trình bày thật đơn giản và thâu gọn ý chính cho các bạn cùng theo.

Theo Thầy, Tịnh Độ không có xu hướng cá nhân. Nếu ta chán ghét thế gian này, quay lưng vào nó rồi chỉ chuyên tâm Niệm Hồng Danh A Di Đà Phật thì theo kinh điển, Phật cũng sẽ rước thôi, nhưng chúng ta đã đánh mất Bồ Đề Tâm.

Khi chưa phát Bồ Đề Tâm, chưa tin nhân quả, chưa học hạnh Bố Thí, chưa tụng kinh Đại Thừa là chúng ta chưa đủ tư lương để đem theo về Tịnh Độ, vật chất không có trí tuệ cũng không, lấy gì cho ai hay độ được ai?

Để các giới tử khỏi hoang mang, Thầy đem câu chuyện Đức Phật giới thiệu cảnh giới Tây Phương cực lạc cho bà Hoàng hậu Vi Đề Hi nương theo để thoát khổ, thoát cảnh trần ai khi nhìn thấy đứa con yêu ngỗ nghịch, vua A Xà Thế giết cha để đoạt ngôi báu. Đức Phật khuyên bà Vi Đề Hy phải hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ Sư trưởng, bố thí phát bồ đề tâm và tin sâu nhân quả. Như thế mới đầy đủ tư lương để đem theo về Tịnh Độ.

Thầy đưa ra một thí dụ điển hình có thật tại Na Uy, năm ngoái có một Phật tử đến tận Chùa nhờ sư phụ Thầy chữa bệnh. Bà ta mắc một căn bệnh kỳ quái không một bác sĩ nào biết được, đó là phát tâm ma chỉ nghĩ lời phỉ báng chính vị Phật bà ta cầu vãng sanh niệm hồng danh ngài một ngày 7 tiếng. Những câu chửi kém tao nhã luôn phát ra trong đầu khiến bà ta muôn vàn đau đớn. Hỏi ra mới biết bà ta không đi Chùa, không làm một tí công đức nào, chỉ nghe băng giảng của Pháp sư Tịnh Không, nắm chặt câu Niệm Phật nằm lòng, bỏ mặc sự đời đằng sau lưng mà ra công niệm gấp ngày đêm. Để rồi kết quả lại đưa đến tình trạng bi đát như thế. Trường hợp hy hữu này không biết có được dùng 4 chữ tẩu hỏa nhập ma hay không?

Đoán được ý nghĩ các giới tử, Thầy giảng ngay về những đạo tràng Huân tu tịnh độ trong đó mọi người cùng nhau niệm Phật từ sáng đến tối ròng rã suốt 7 ngày, có bị phản ứng phụ hay không? Chắc chắn là không, vì đạo tràng đã được thần lực của Chư Phật che chở. Thầy An Chí cũng đánh tan những tư tưởng sai lầm của một thiểu số người, chỉ cho pháp môn Niệm Phật của mình là tối thượng thừa, nâng đỡ một Pháp để chà đạp các Pháp khác việc làm ấy nguy hiểm vô cùng. Cũng như ngày xưa xuất hiện loại Thiền cực đoan có một thời làm mưa làm gió, rồi đổi sang Tịnh Độ với trăm hoa đua nở, nhưng vạn Pháp đều quy về một Pháp.

Trong 24 giờ thọ giới, chúng tôi được nghe đến 3 thời Pháp, nghe một cách say sưa hay nghe như một thùng nước lạnh dội khắp cả toàn thân, đấy là tùy theo căn cơ của từng người. Các bạn ạ! Đến đoạn Thầy giảng về hạnh Bố Thí, về những việc làm từ thiện của các Bồ Tát sơ địa “tơ lơ mơ“ như chúng ta từ trước đến nay, nếu không có chứa Bồ Đề Tâm trong việc làm ấy thì cũng chỉ thu được chút ít phước đức hữu lậu mà thôi. Phước hữu lậu cũng nguy hiểm, có nguy cơ bị đọa trong đời thứ 3, vì đời thứ 2 sẽ hưởng phước giàu sang quyền quí cho đến khi cạn vốn. Nếu bố thí có trí tuệ sẽ phát sinh phước vô lậu đưa đến bờ giải thoát.

Tôi ngồi xếp bằng bên dưới chăm chú nghe, nhưng người xem như cứng đơ thấy lạnh cả toàn thân. Không biết bao năm nay mình đã bỏ nhiều công sức, tiền của để làm từ thiện, nào là chương trình xe lăn, cứu lụt, đào giếng xây cầu… hễ chỗ nào kêu cứu là mình sẵn sàng móc túi. Cứ tưởng làm thế là công đức là niềm vui, nhưng bây giờ hiểu rồi. Cứ vẫn tiếp tục làm nhưng phải trộn thêm một ít bồ đề tâm, tặng cho người nhận một câu niệm Phật để họ tự giải nghiệp mà vãng sanh.

Trong đề tài giảng về Bồ Đề Tâm, Thầy đem ngay thí dụ điển hình ngôi chánh điện mới của chùa Linh Thứu và Ni Sư trụ trì cùng các Sư Cô trong chùa. Đứng về phương diện tu học Phật Pháp thì Ni Sư không cần phải xây chùa lớn, muốn được giải thoát và vãng sanh chỉ lo nhập thất chuyên tu cho riêng mình. Nhưng đây Ni Sư phát Bồ Đề Tâm muốn độ nhiều chúng sanh, tạo điều kiện cho họ tu tập, cũng có chúng sanh sẽ thành Phật trước cả Ni Sư nhưng người cam tâm ở lại khách trọ Ta Bà, chịu đựng thêm phiền não và bệnh tật để duy trì ngôi Tam Bảo. Phần các Sư Cô trong chùa cũng chẳng khá gì hơn, thấy các công việc họ phải làm hằng ngày, Thầy cũng lắc đầu ngao ngán cho đường tu của các Sư Cô. Nhưng vì 3 chữ Bồ Đề Tâm tất cả đều được!

Nghe đến đây tôi cũng rơm rớm nước mắt, hứa với lòng sẽ nỗ lực làm công quả thêm nhiều nữa. Không còn nhiều thời gian để ngồi chuyện phiếm phân tích lý giải đúng sai. Ngôi chánh điện của chùa Linh Thứu nhất định phải hoàn thành trong thời gian gần nhất. Tôi tin là thế!

Bước sang đến đề tài Thọ Giới và Giữ Giới. Phải có phước lắm ta mới giữ được Giới, giả như lỡ sinh vào gia đình của Diệu Thủ thư sinh nghĩa là có bàn tay nối dài ăn trộm ba đời thì sẽ vì miếng cơm manh áo mà phạm giới. Hay thông thường hơn là làm con của Cô Tư bán cháo gà thì khó lòng giữ được Giới không sát sanh. Nhìn đi rồi nhìn lại, hơn 70 giới tử ngồi Thọ Giới và Giữ Giới trong chánh điện của chùa Linh Thứu hôm nay có quá nhiều phước đức. Họ vừa được tụng kinh, vừa được Niệm Phật đi kinh hành, rồi nghe Pháp Phật và tập phong cách Tứ oai nghiêm, đi đứng nằm ngồi thật đoan trang. Ai bảo thế giới Ta Bà này đáng ghét, nơi nào còn có Phật Pháp là còn có chỗ để nương theo.

Ở đoạn đầu tôi có nhát ma các bạn, có nhiều người rất sợ ma nhưng lại rất thích nghe kể chuyện ma. Vậy các bạn hãy nghe thầy An Chí kể về những con ma Thầy vớt được trong những đàn tràng chuẩn tế. Ở Oslo có một em bé 14 tuổi người Na Uy, có khả năng tiếp cận được với người cõi âm. Em tìm đến chùa Khuông Việt và làm công việc truyền thông với các oan hồn uổng tử không rõ họ tên. Chính các oan hồn nhờ Em cầm hộ bài vị với pháp danh thầy An Chí đặt cho. Thầy bảo, trong những lúc mình ngồi thọ bát hay tụng kinh niệm Phật, các hương linh được ký tự trong Chùa cũng ra ngồi cạnh để tu theo. Coi chừng đấy! Nếu ta ngồi nghiêng ngả hay ngủ gật là biết bao con mắt cả âm lẫn dương đều phiền lòng.

Ngày xưa còn bé tôi rất sợ ma, sợ đến nỗi ban đêm không dám thò chân xuống giường để đến nỗi mang bệnh Dấm Đài. Nhưng từ khi biết Phật Pháp tôi không còn sợ ma nữa, vì nơi đâu có Phật là ma phải lui ngay. Bây giờ giữa ma và người, tôi sợ người hơn ma.

Trước khi kết thúc bài viết, tôi xin được kể sơ qua vài dòng về những chuyện sau bức màn lam (màu áo tràng). Thật ra tôi không có ý định viết bài sau mỗi khóa tu, năm nào chùa cũng tổ chức bao nhiêu là khóa tu, các bạn biết đấy!

Thế nhưng định mệnh đã an bài, lúc tôi đến chào thầy An Chí, định chúc Thầy thượng lộ bình an và hẹn năm sau cũng vào giờ này nếu còn sống sẽ đến chùa Thọ Bát. Vì nghe đâu cuối năm 2012 sẽ tận thế theo lịch của người Maya. Thầy nhìn tôi cười cười, hỏi xã giao:

-        Sao dạo này cô Hoa Lan có cho ra tác phẩm gì mới không?

Tôi giật mình nói đại cho đỡ quê:

-        Dạ có tuyển tập tựa đề “Email cho Phật A Di Đà“, nhưng chưa thể tặng Thầy được, vì thiếu bài viết về khóa tu này.

Thầy cười thật tươi, sốt sắng đặt luôn tựa đề cho bài viết là Tư lương đem theo về Tịnh Độ, tôi sợ tốn mực và chỗ của tờ báo Viên Giác nên cắt bớt hai chữ, có thể làm tựa đề không được rõ nghĩa lắm, mong các bạn thông cảm.

Chúc các bạn một ngày vui.

 

Hoa Lan.

Mùa đông 2011.

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5083)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4102)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4693)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4154)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3600)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6881)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5053)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]