Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cái nhìn

27/11/201407:34(Xem: 8188)
Cái nhìn
Buddha_105

I. Khái quát
Nhìn là cái gì quen thuộc với chúng ta , mà cũng là rất xa lạ. Cái gần nhất có khi lại là cái xa lạ nhất. Có lúc nó hiện ra như dòng thác lũ phiền não nhận chìm con người. Có lúc khơi dậy những nét đẹp của cuộc sống, sự thật và hạnh phúc. Nó trở nên bí mật. Nó gây kinh ngạc, và chính nó là sự kinh ngạc.

Thông thường, nhìn có nghĩa là mắt nhìn với sự có mặt của hoạt động ý thức hay có thể nói, tâm nhìn sự vật qua mắt. Tương tự, tâm nhìn sự vật qua tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Nói đến nhìn là nói đến nội dung của cái thấy và tác dụng của cái thấy. Tác dụng này tác động đến người nhìn, vật bị nhìn và lan rộng ra ngoài như một làn sóng. Hầu như thế giới ta đang sống chỉ là hiện hữu của cái nhìn, mà không phải là thế giới của chính nó.

II. Những cái nhìn quen thuộc
Cái nhìn chụp phủ lên sự vật  những gì của nó, và nó mãi mãi chỉ thấy sự vật bị chụp phủ, mà không phải là sự vật như thật. Ca dao nói:

Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi nhện chờ mối ai

Cái nhìn này lại phơi bày một niềm đau, một nỗi thất vọng khác. Nguyễn Du, qua truyện Kiều, nhìn xã hội Việt Nam ly loạn của thế kỳ 18 với cái nhìn rất hiền triết và rất ngậm ngùi rằng:

Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Ôn Như Hầu thì nhìn xã hội Việt Nam của thế kỷ 18 với tâm trạng oái oăm, cay đắng:

Trải vách quế gió vàng hiu hắt
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng
Oán chi những khách tiêu phòng
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.

Vạn Hạnh thiền sư đời Lý nhìn cuộc đời một cách trí tuệ, thấy rõ nó là mỏng manh, vô thường; với thái độ nhìn thanh thản, tự tại:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy, vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

Tạm dịch
Thân như bóng chớp hữu rồi vô
Cây cỏ xuân tươi, thu lại khô
Tùy vận thịnh suy lòng chẳng sợ
Thịnh suy đầu cỏ hạt sương phô

Vua Trần Nhân Tôn, Điều Ngự Giác Hoàng, thể nghiệm giải thoát sâu xa giữa đời nên cái nhìn trở nên rất thiền, rất tự nhiên:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
( Cư trần lạc đạo phú )

Tạm dịch:
Sống đời vui đạo cứ tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt nghỉ liền
Có báu trong nhà đừng chạy kiếm
“Vô tâm” trước cảnh, hỏi chi thiền

Mỗi cái nhìn cuộc đời chuyên chở một nội dung khác nhau tùy theo điều kiện, khả năng, và vị trí của người nhìn

III. Triết lý về cái nhìn
Cái nhìn không đơn thuần là một quá trình vật lý, mà là một chuổi những quá trình vật lý và tâm lý tiếp nối nhau. Trong chuỗi quá trình tâm vật lý ấy xuất hiện những thái độ tâm lý buồn, vui, ưa, ghét…Carl Jung, một nhà phân tâm học của thế kỷ 20, đã nói : “Bao giờ cái nhìn của bạn cũng bị giới hạn bởi những gì bạn đang có và đang là” Quả thực, trước cùng một sự vật, mỗi người có một cái nhìn riêng và bị đóng khung trong các điều kiện vật lý, tâm lý, sinh lý, kiến thức, tập quán, thành kiến…của mình. Văn hóa thời đại cũng góp phần vào giới hạn đó. Vì thế, trước cuộc đời, trước con người khổ đau hay hạnh phúc, đã phát sinh nhiều cái nhìn giới hạn, nghiêng lệch, dẫn đến những hệ lụy khác nhau.

IV. Hệ lụy của cái nhìn – Giáo dục và cái nhìn
Nếu không nhìn ra bản chất của cái nhìn, nếu không thấy tính tương đối và hư cấu của nó, con người sẽ rơi ngay vào các hệ lụy, cạm bẩy của nó và trở thành nạn nhân khốn đốn của chính nó. Kinh nghiệm sống cho thấy rằng cái đẹp không trói buộc – nói đúng là không  thực sự trói buộc – người nhìn nó, mà chính cái nhìn của người nhìn trói buộc mình; chính lòng ham muốn; sân hận, hay si mê khởi lên từ cái nhìn trói buộc mình.

Có những cái nhìn gây thiện cảm với tha nhân, có những cái nhìn gây ác cảm. Cũng có những cái nhìn khiến mình và người bình an hay lúng túng…Các nhà tâm lý giáo dục ghi nhận rằng phần lớn rối loạn tâm lý của một con người là do cái nhìn sai lệch của người ấy, mà không thực sự do tha nhân hay hoàn cảnh. Hầu như người đời thường đánh mất 90 % năng lượng đời sống do những rối loạn gây ra bởi những cái nhìn sai lệch ấy. Thật đáng suy gẫm.

Thế nên, để sống vui mình, vui người, người ta phải biết nhìn như thế nào để tránh các phiền não hệ lụy. Cái nhìn, cách nhìn là một nghệ thuật sống cần được nghiên cứu, học hỏi và truyền đạt. Trong một tập thể xã hội, cái nhìn của đa số cũng quyết định sự hưng suy của tập thể, xã hội ấy. Vì thế, cái nhìn càng được trân trọng và cẩn trọng quan tâm. Đổi mới tư duy là đổi mới cái nhìn. Nói ngược lại cũng thế.

Cái nhìn tốt đẹp đòi hỏi trình độ văn hóa, trí thức, tình người, và trí tuệ của người nhìn. Nó cần được huấn luyện, giáo dục và cần thời gian. Phật giáo đã nói rất nhiều về cái nhìn và đã giới thiệu với đời con đường chuyển đổi cái nhìn thành cái nhìn đầy tình người, trí tuệ, an lạc, và giải thoát.

V. Phật giáo và cái nhìn
1- Cái nhìn duyên khởi, vô ngã
Nếu đêm cuối cùng dưới cội Bồ đề, Đức Phật không phát hiện ra cái nhìn duyên khởi thì sự thật về Tứ đế, Nhân quả và Duyên khởi của cuộc đời chưa được phát hiện, và đạo Phật chưa có mặt ở đời. Vì thế cái nhìn duyên khởi, vô ngã là cái nhìn Phật giáo giải thoát con người ra khỏi các hệ lụy khổ đau của cuộc đời.

Con người xưa nay chịu khổ đau vì tự giam hãm mình trong cái nhìn hữu ngã, cho rắng mọi cái nhìn hiện hữu đều có tự ngã, rồi cái nhìn hữu ngã ấy khởi lên tham lam, sân hận, tà kiến, sợ hãi kiêu căng, thị phi… làm nên dòng cuồng lưu của tâm lý và cuồng lưu của cuộc đời nhận chìm mình trong sanh tử.
 
Sau ngày giác ngộ đạo vàng, Đức Phật suốt 45 năm giáo hóa đã giới thiệu với đời cái nhìn duyên khởi, vô ngã ấy để dập tắt các sầu bi, khổ, ưu não ngay trong hiện tại. Con đường xây dựng cái nhìn này là đạo đế hay còn gọi là con đường thiền định Phật giáo.

2- Kinh Pháp cú
Bài kệ 170, Kinh Pháp cú ghi:

Hãy nhìn đời như bọt nước
Nhìn đời như ảo ảnh
Hãy nhìn đời như thế
Thần chết không bắt gặp
(Bản dịch của HT, Minh Châu)

Do vì biết hết thảy hiện hữu là do nhân duyên sinh nên hết thảy hiện hữu là không có tự ngã, là vô thường và dẫn đến khổ đau. Bài kệ trên đã giới thiệu một cái nhìn về hiện hữu, thấy nó mòng manh, vô thường, không thật như bọt nước ảo ảnh như chúng đang là. Thấy như vậy, người nhìn sẽ thức tỉnh ra khỏi cái tâm lý tham lam, sân hận, ngã mạn…và từ đó xuất hiện tâm lý giải thoát, trí tuệ giải thoát.

3- Kinh Kim Cang Bát Nhã
Tương tự với bài kệ Pháp Cú trên, bài kệ kết thúc kinh Kim Cương dạy:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn, bào ảnh
Như lộ diệc, như điển
Ứng tác như thị quán

Dịch nghĩa toàn kệ:
Nên khởi lên cái nhìn hết thảy moi hiện hữu ( Các pháp bị duyên tác thành) là như sương, như chớp, là huyễn hư, là bọt nước. Cứ nuôi dưỡng cái nhìn đó thì dần dần tất cả các tưởng về các tự ngã sẽ bị dập tắt. Từ đó cái gốc để làm dấy lên tham sân si không còn cái nhìn đó sẽ đưa chúng ta đến giải thoát sau cùng: giáp mặt với sự thật và hạnh phúc.

4- Kinh Pháp Hoa
Kinh Pháp Hoa thì nhằm chỉ cho thấy sự thật duyên sinh, vô ngã, ngộ, và nhập sự thật ấy. Phẩm Phổ Môn đã giới thiệu sự tu tập, huấn luyện cái nhìn như sau:

Chơn quán thanh tịnh quán
Quảng đại trí tuệ quán
Bi quán cập từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Vô cấu thanh tịnh quang
Huệ nhật phá chự ám
Năng phục tai phong hỏa
Phổ minh chiếu thế gian
Bi thể giới  lôi chấn
Từ ý diệu đại vân
Chú cam lồ pháp vũ
Diệt trừ phiền não diệm

Dịch nghĩa:
Hãy nhìn sự thật hãy nhìn với cái nhìn trong sáng
Hãy nhìn với trì tuệ rộng lớn
Hãy nhìn với lòng từ bi
Ánh sáng (trí tuệ) không cấu uế của cái nhìn ấy
Sẽ như mặt trời phá tan các hôn ám (vô minh)
Làm tiêu tan các tai nạn chiếu sáng khắp thế gian
Lòng bi như là sấm kéo lại
Tâm từ như đám mây lớn (bủa ra)
Rơi xuống cơn mưa Pháp
Dập tắt lửa phiền não

Huấn luyện cái nhìn như phẩm kinh Phổ Môn giới thiệu ở đây thì người đời sẽ nhận ra cái Nhìn xuất hiện như là một phép lạ tạo thành cơn mưa Pháp trong tâm và dập tắt hết phiền não khổ đau từ tâm. Cái nhìn rất từ bi và trí tuệ ấy là cái nhìn giải thoát khổ đau của Phật giáo.

5- Tứ Thánh đế: Giáo lý thánh đế là giáo lý căn bản của các bộ phái Phật giáo. Vừa nói lên sự thật vừa giới thiệu phương pháp nhìn sự thật của các hiện hữu.

– Các hiện hữu vốn không thật, vô thường và dẫn đến khổ đau .
– Nguyên nhân của khổ đau ấy là lòng tham ái mọi hiện hữu và vô hữu.
– Lòng tham ái bị dập tắt là khổ đau hết. Niết-bàn xuất hiện.
– Con đường dập tắt khổ đau.

Nhìn cuộc đời thế nào để dập tắt lòng tham ái kia. Cái nhìn ấy thường được lập đi lặp lại mãi cho đến khi khổ đau diệt. Nuôi dưỡng cái nhìn ấy là thực hiện con đường hay gọi là tu tập Tứ Niệm xứ (hoặc tu tập đạo đế).

VI- Cái nhìn thiền định Phật giáo.
Tứ niệm xứ là pháp môn thiền định của Phật giáo, cơ sở của sự thực hiện 37 phẩm trợ đạo (đạo đế). Đây là phần công phu huấn luyện cái nhìn đơn thuần và tỉnh giác. Niệm là sự tập trung chu ý vào cái Nhìn, theo dõi một trong bốn đối tượng: hơi thở, cảm xúc, tâm lý, và các đối tượng của nhận thức.

Đại để có thể giới thiệu công phu giáo dục, huấn luyện này qua bảy bước đi chính. Bước đi làm ổn định thân, lời và hơi thở; thuộc giới học. Bước di làm tịch lặng năm thứ ngăn che tâm (trạo cử, hôn trầm, dục, sân, nghi ) và các tạp tưởng khác, sao cho cái nhìn dán chặt vào đối tượng được theo dõi; gọi là bước đi thanh tịnh tâm.

Bước đi thấy rõ, hiện rõ ràng là đúng đối tượng theo dõi đó là một chuỗi quá trình vật lý và tâm lý do nhân duyên sinh, chúng rỗng không không có tự ngã, và không có mặt cái ta ở đó hay ở nơi nào khác cả. Con người và thế giới chỉ là quá trình tâm lý duyên sinh ấy; đây là bước đi “thanh tịnh kiến” (thanh tịnh cái thấy).

Tiếp tục bước đi thứ ba với cái thấy suy diễn rộng hơn lan ra mọi hiện hữu và thấy rõ tất cả là duyên sinh. Vô ngã. tại đây, một nguồn hạnh phúc vô biên tuôn trào ra từ cái nhìn và cái thấy ấy; đây là bước đi qua khỏi các nghi ngờ. 
Nhưng tại đây, cái nhìn trí tuệ cần được an trú để nhận rõ cái nguồn hạnh phúc đang tuôn trào ra ấy là chướng ngại cho công phu phát triển cái nhìn trí tuệ, và để giữ tâm an tịnh tiếp tục huấn luyện cái nhìn trên; đây là bước đi thứ năm thấy rõ những gì là đạo, những gì không phải đạo.

Tiếp tục công phu huấn luyện cái nhìn theo hướng tiến triển ấy, mọi hiện hữu sẽ tan biến tự ngã ngay trước cái nhìn của ta đến nỗi ta có cảm nhận tát cả hầu như không có hiện hữu nữa. Cứ tiếp tục nhìn rồi dần dần các hiện hữu sẽ hiện rõ trở lại với sự thật duyên sinh của nó. Hành giả tại đây sẽ có kinh nghiệm loại bỏ các sợi dây tâm lý trói buộc trí tuệ giải thoát (loại bỏ các kiết sử), lần lượt đi vào kết quả trí tuệ giải thoát của các bậc Thánh; đây là bước đi thấy các đạo, các quả.

Tiếp tục an trú trong công phu nhìn kia cho đến kết quả thấy và biết hoàn toàn thanh tịnh, an ổn, thì hành giả đi vào sức mạnh của tâm lý giải thoát ( năm căn và năm lực) cho đến quả vị A-la-hán chặt đứt hoàn toàn mọi nhân tố tâm lý đưa vào sinh tử, khổ đau.


Cái nhìn được giáo dục và huấn luyện trên đây gọi là cái nhìn của sự chú ý thuần túy. Nó là cái nhìn vừa đầu tiên vừa cuối cùng của công phu thiền định. Nó là chánh niệm, tỉnh giác. Có thể gọi đó là cái nhìn trí tuệ giải thoát. Bám chặt công phu nhìn này, các tạp tưởng, vọng tưởng sẽ lần lượt ra đi, và đối tượng nhìn (trong tâm và ngoài cảnh) sẽ tự phơi bày sự thật của nó. Bây giờ những gì mà trước đó được gọi là ảo hóa, hư huyễn đều tiêu biến.

Từ bước đi thứ sáu, hành giả đã nhìn sự vật với tâm tự tại không vướng mắc, cáí điều mà Điều Ngự Giác Hoàng gọi là “đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” (vô tâm trước cảnh hỏi chi thiền). Có thể nói rằng cái nhìn “vô tâm” của Điều Ngự là cái nhìn trí tuệ của bước đi thứ sáu và thứ bảy của công phu thiền định kia. Tại đây, vắng mặt các phiền não hệ lụy.

Bí mật của cuộc sống là ở chỗ giữa khi hiện hữu là một dòng duyên sinh trôi chảy thì con người và tư duy ngã tính của con người đi tìm một cái ngã không bao giờ thực sự có mặt. Sự thật của khổ đau và hạnh phúc không phải ở trong tay một đấng quyền năng thiêng liêng nào cả, cũng không phải ở ngoại cảnh, mà là ở trong chính ta, trong chính cái nhìn của ta vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5440)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10440)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9248)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6554)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8954)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5116)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5316)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5757)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4621)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5202)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]