Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngọc trong chéo áo

23/10/201408:39(Xem: 8500)
Ngọc trong chéo áo
ngoc

Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. 
 
Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
 
Theo lời Phật thì một người nghèo khó về của cải vật chất mà không biết nỗ lực vượt khó thoát nghèo thì phải gánh chịu nhiều nỗi khổ chồng chất. Vì khi nghèo khó thì phải đi vay nợ và mắc nợ; vay nợ thì phải chấp nhận trả tiền lời cho chủ nợ; khi đến thời hạn trả tiền lời mà không thanh toán được thì bị người ta hối thúc, đốc thúc; rồi đi đâu cũng bị người ta truy tìm, theo sát gót; sau cùng là bị người chủ nợ bắt trói. 
 
Tương tự, một người nghèo về đạo đức và trí tuệ, nghĩa là không có lòng tin, không có lòng hổ thẹn (tàm), không có lòng sợ hãi (quý), không có tinh cần tinh tấn, không có trí tuệ trong các thiện pháp, thì phải chịu mọi bất hạnh khổ đau lâu dài. Vì một khi không có lòng tin, không có lòng hổ thẹn, không có lòng sợ hãi, không có tinh cần tinh tấn, không có trí tuệ trong các thiện pháp thì con người sẽ dễ dàng rơi vào các hành vi ác, bất thiện về thân (sát sanh, trộm cắp, tà dâm), về lời (nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm), về ý (tham dục, sân hận, tà kiến); khi đã làm ác nghiệp rồi thì cố tình che giấu các hành vi xấu ác của mình; thế rồi bị những người khác biết và chỉ trích; và người ấy có đi đâu cũng mang theo mặc cảm tội lỗi hay bị ám ảnh bởi ác nghiệp của mình; sau cùng, khi thân hoại mạng chung phải bị trói buộc trong ác thú, đọa xứ, địa ngục do ác nghiệp mà mình đã làm. 
 
Nguyên văn lời Phật dạy:
 
“- Sự nghèo khổ, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời? Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
 
Khi một người nghèo khổ không có sở hữu, sống túng thiếu, phải mắc nợ. Mắc nợ, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời? Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
 
Khi một người nghèo khổ không có sở hữu, sống túng thiếu, sau khi mắc nợ, phải chấp nhận tiền lời. Tiền lời, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời? Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
 
Khi một người nghèo khổ, không có sở hữu, sống túng thiếu, phải chấp nhận tiền lời, và khi thời hạn đến, không trả được tiền lời, người ta hối thúc, đốc thúc người ấy. Sự hối thúc, đốc thúc, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời? Thưa vâng, bạch thế Tôn.
 
Khi một người nghèo khổ, không có sở hữu, sống túng thiếu, bị hối thúc, không trả được tiền lời, người ta theo sát gót truy tìm người ấy. Bị theo sát gót, bị truy tìm, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời? Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
 
Khi một người nghèo khổ, không có sở hữu, sống túng thiếu, bị theo sát gót, bị truy tìm, không trả nợ được tiền lời, người ta bắt trói người ấy. Sự bắt trói, này các Tỷ-kheo, có phải là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời? Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
 
Này các Tỷ-kheo, như vậy, nghèo khổ là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời; mắc nợ cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời; tiền lời cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời; bị hối thúc, đốc thúc cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời; bị theo sát gót, bị truy tìm cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời; bị bắt trói cũng là một sự đau khổ cho người có tham dục ở đời.
 
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai không có lòng tin trong các thiện pháp, không có lòng hổ thẹn trong các thiện pháp, không có lòng sợ hãi trong các thiện pháp, không có tinh tấn trong các thiện pháp, không có trí tuệ trong các thiện pháp; người này, này các Tỷ-kheo, được gọi là người nghèo khổ, không có sở hữu, sống túng thiếu trong Luật của bậc Thánh.
 
Nay chính người ấy, này các Tỷ-kheo, không có lòng tin trong thiện pháp, không có lòng hổ thẹn trong các thiện pháp, không có lòng sợ hãi trong các thiện pháp, không có tinh tấn trong các thiện pháp, không có trí tuệ trong các thiện pháp, làm ác hạnh về thân, làm ác hạnh về lời, làm ác hạnh về ý nghĩ. Ta gọi người ấy là người mắc nợ.
 
Người ấy do nhân che giấu ác hạnh về thân, về lời, vế ý, khởi lên ác dục: “Mong rằng không ai biết ta làm”; suy nghĩ rằng: “Mong rằng không ai biết ta làm”; nói rằng: “Mong rằng không ai biết ta làm”; cố gắng với tác động về thân, nghĩ rằng: “Mong rằng không ai biết ta làm”. Người ấy, do nhân che giấu ác hạnh về thân, về lời, về ý như vậy, Ta gọi là tiền lời gia tăng.
 
Và các đồng Phạm hạnh thuần thành nói về người ấy như sau: “Tôn giả này có làm như vậy, có sở hành như vậy”. Đây Ta nói rằng người ấy bị hối thúc, đốc thúc. Rồi người ấy đi đến rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, các ác thiện tầm câu hữu với hối lỗi hiện hành. Đây Ta gọi là bị theo sát gót, bị truy tìm.
 
Nay chính người ấy, sau khi làm ác hạnh về thân, sau khi làm ác hạnh về lời, sau khi làm ác hạnh về ý, khi thân hoại mạng chung, bị trói buộc trong trói buộc của Địa ngục, bị trói buộc trong trói buộc của loài bàng sanh. Và này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một trói buộc nào khác lại khắc nghiệt như vậy, lại ác liệt như vậy, lại làm chướng ngại như vậy cho sự chứng đắc vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, này các Tỷ-kheo, giống như sự trói buộc địa ngục hay sự trói buộc các loài bàng sanh”(1).
 
Các so sánh lưu nhắc về hệ quả khổ đau giữa hai cái nghèo, nghèo về vật chất và nghèo về đạo đức, trong câu chuyện:
 
- Nghèo túng, thiếu thốn về vật chất được ví như không có lòng tin (về nhân quả thiện ác); không có xấu hổ (đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác); không có sợ hãi (đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác); không có tinh tấn (từ bỏ thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác và làm các việc thiện về thân, về lời, về ý); không có trí tuệ (phân biệt rõ về thiện ác, nhân quả thiện ác).
 
- Mắc nợ là đồng nghĩa với thân làm ác (sát sanh, trộm cắp, tà dâm), miệng nói ác (nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm), ý nghĩ ác (tham dục, sân hận, tà kiến).
 
- Tiền lời được xem là tương đương với thái độ cố ý che giấu các ác hạnh về thân, về lời, về ý mà mình đã làm.
 
- Bị hối thúc, đốc thúc được ví như sự chỉ trích phê bình của người khác về các hành vi xấu ác mà mình đã làm, đã tích tập.
 
- Bị truy tìm, theo sát gót là đồng nghĩa với các ý nghĩ xấu ác đi đôi với mặc cảm lỗi lẫm luôn hiện hữu ám ảnh tâm tư người ấy dù ở đâu hay đi đâu.
 
- Bị bắt trói được xem là đồng nghĩa với sự tái sanh trong địa ngục hay loài bàng sanh sau khi chết.
 
Nhìn chung, Phật nêu cái nghèo về của cải vật chất và các hệ quả khổ đau đi kèm với nó để nhắc nhở chúng ta cái nghèo về đạo đức và trí tuệ gắn liền với các hậu quả khổ đau do tình trạng nghèo kém đạo đức và trí tuệ mang lại. Hẳn nhiên, nghèo về của cải vật chất thì rất khổ(2). Nhưng nghèo về đạo đức và trí tuệ lại càng khổ hơn, vì đó là nguyên nhân của mọi bất hạnh khổ đau không ngừng tiếp diễn dưới các hình thức tái sanh không may mắn của con người ở trong vòng sinh tử luân hồi(3). Nhận thức được điều đó thì mỗi người cần phải nỗ lực tìm cách khắc phục và vượt qua mọi tình huống nghèo khổ.
 
Câu chuyện nhấn mạnh về trình trạng nghèo khổ nhưng gián tiếp gợi nhắc cho chúng ta về khả năng và cách thức thoát khỏi nghèo khổ, giúp cho chúng ta biết cách xây dựng cuộc sống giàu sang, hiền thiện, hạnh phúc, an lạc. Đó là nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ tự nội – niềm tin, lòng hổ thẹn, lòng sợ hãi, tinh tấn và trí tuệ trong các thiện pháp. 
 
Một người mà không có và không biết nuôi dưỡng niềm tin (về lẽ thiện ác hay nhân quả thiện ác), không có và không biết nuôi dưỡng lòng xấu hổ (đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác), không có và không biết nuôi dưỡng lòng sợ hãi (đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác), không có và không biết nuôi dưỡng tinh tấn (từ bỏ thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác và làm các việc hiền thiện về thân, về lời, về ý), không có và không biết nuôi dưỡng trí tuệ (phân biệt rõ về thiện ác, nhân quả thiện ác) thì không thể thoát khỏi bất hạnh khổ đau do sự nghèo đói về đạo đức và trí tuệ mang lại. 
 
Trái lại, người nào biết nuôi dưỡng và phát triển lòng tin (về lẽ thiện ác), biết nuôi dưỡng và phát huy lòng xấu hổ (đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác), biết nuôi dưỡng và phát triển lòng sợ hãi (đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác), biết nuôi dưỡng và phát triển tinh tấn (từ bỏ thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác và làm các việc hiền thiện về thân, về lời, về ý), biết nuôi dưỡng và phát triển trí tuệ (phân biệt rõ về thiện ác, nhân quả thiện ác) thì chẳng những không rơi vào bất hạnh khổ đau mà còn khiến cho mình trở nên hạnh phúc an lạc do sự giàu có về đạo đức và trí tuệ. Đây hẳn là thâm ý của Phật trong câu chuyện. 
 
Trong cách nói của Ngài, Đức Phật gọi một người nghèo khổ mà biết phát huy các phẩm chất tự nội để làm thăng hoa cuộc sống của mình là “người từ trong bóng tối đi ra ánh sáng”(4) hay “kẻ soi sáng cõi đời này”(5).
 
Nói tóm lại, tùy thuộc vào duyên nghiệp riêng biệt mà con người ta sinh ra ở đời thừa hưởng các điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên, dù ở trong điều kiện hay hoàn cảnh nào thì mỗi người đều sẵn có trong mình tiềm năng giác ngộ hay các phẩm chất tự nội – lòng tin, lòng xấu hổ, lòng sợ hãi, tinh tấn và trí tuệ trong các thiện pháp - để có thể cải thiện và hoàn thiện chính mình, làm cho cuộc sống của mình trở thành giàu sang, hiền thiện, hạnh phúc, an lạc. Vấn đề là mỗi người cần phải biết vận dụng và phát huy các phẩm chất tốt đẹp ở trong chính mình. 
 
Kinh sách đạo Phật thường ví von: “ngọc trong chéo áo” mà để rơi vào vòng túng quẫn, hay“báu có trong nhà”mà cứ đi tìm của cải ở bên ngoài. Tất cả cách nói ấy chỉ để lưu nhắc một điều: hết thảy mọi người đều sở hữu các tiềm năng hay phẩm chất tốt đẹp, hãy biết dùng chúng để xây dựng cuộc sống giàu sang, hiền thiện, hạnh phúc và an lạc cho mình và cho mọi người. 
 
(TC. Văn Hóa Phật Giáo)
 
Chú thích:
 
Kinh Nghèo khổ, Tăng Chi Bộ.
Kinh Kùtadanta, Trường Bộ.
Kinh Chuyển luân Sư tử hống, Trường Bộ.
Kinh Tối tăm, Tăng Chi Bộ; Kinh Người, Tương Ưng Bộ.
Pháp cú, kệ số 172-173.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2016(Xem: 11321)
Nếu người nào cho con trai, con gái, đứa ở trai, đứa ở gái hoặc người dân hay chính mình đi xuất gia, công đức ấy thật vô biên. Nếu đem so với phước báu của bố thí, dầu có được hưởng phước đến 10 đời trên cõi nhân, thiên cũng không bằng công đức cho một người đi xuất gia hay tự mình đi xuất gia. Tại sao thế? Vì phước báo bố thí chỉ có hạn định, còn phước báo xuất gia không có hạn định, nên không thể bì kịp, hoặc phước báu trì giới, hoặc phước của các vị thần tiên có đủ năm phép thần thông, cho đến phước báu cùng tột của cõi trời Phạm thiên, đem ví với phước báu của xuất gia trong Phật-Pháp cũng không sánh nổi.
07/01/2016(Xem: 8298)
THUẬT NGỮ "ĐẠT LAI LẠT MA" có những ý nghĩa khác nhau tùy theo những con người khác nhau. Đối với một số người, thuật ngữ này tuyên bố rằng tôi là một vị Phật Sống, hóa thân trên trái đất của Quán Thế Âm, một vị Bồ tát của Từ Bi. Đối với một số người khác, nó có nghĩa rằng tôi là một vị "Thánh Vương."
07/01/2016(Xem: 10218)
Chí nguyện thứ nhất của tôi trong đời sống, như một con người, là thúc đẩy những giá trị nhân bản và những phẩm chất đó của tâm linh là những nhân tố then chốt trong một cuộc sống hạnh phúc, cho dù là một cá nhân, một gia đình, hay một cộng đồng. Ngày nay, dường như đối với tôi thì chúng ta không trau dồi những phẩm chất nội tại này đầy đủ; đó là tại sao ưu tiên của tôi là phát triển chúng.
07/01/2016(Xem: 7661)
Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị tái sanh lần thứ mười bốn thuộc dòng truyền thừa hình thành với sự hóa thân Giác Ngộ từ bi lần thứ nhất của Gendun Drup vào năm 1391. Đức Đạt Lai Lạt Ma đàm luận về những giai thoại và những thành tựu của các kiếp sống trước của ngài một cách tự nhiên cũng như ngài liên hệ đến những ký ức thời thơ ấu của ngài.
06/01/2016(Xem: 7354)
Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng. (Tục Ngữ)
23/12/2015(Xem: 9998)
Phước báu hay phước đức là quan niệm đặc thù của Đông Phương. Đối với Tây Phương thì chỉ có gia tài, sự nghiệp, di sản để lại cho con cháu chứ không có chuyện phước báu hay phước đức. Quan niệm “phước báu hay phước đức” đã trở thành gần như đời sống tâm linh, gắn chặt với lối suy nghĩ và cuộc sống của con người Việt Nam và Trung Hoa. Người Việt Nam ta ai cũng mong cầu phước đức, lo vun trồng phước đức và rất sợ vô phúc.
19/12/2015(Xem: 8531)
Trong Muốn Tỏ Ngộ Là Một Sai Lầm Lớn, Thiền Sư Đại Hàn Sùng Sơn Khai Thị Anh ngữ, Thích Giác Nguyên chuyển tiếng Việt, Con Chó Giết Chết Triệu Châu: Thiền Sư Sùng Sơn và nhiều môn sinh khác đã từng được mời đến nhà của một thiền sinh tại miền quê êm ả thanh bình. Chủ nhà có một con chó lớn, hầu như nó thường nhìn ra ngoài cửa, vẫy đuôi mừng hoặc sủa bất cứ lúc nào nếu có ai đó đến gần nhà. Vào buổi tối, sau khi dùng bữa xong, mọi người nghỉ ngơi quanh lò sưởi, con chó đến ngồi bên cạnh ngài Sùng Sơn. Sư vuốt ve con chó và nói: Ta có một câu hỏi cho con mà tất cả các thiền sinh không thể trả lời được: Đức Phật nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh. Nhưng khi có người hỏi con chó có Phật tánh không, thì Đại Thiền Sư Triệu Châu nói: 'Không!' Vì vậy, ta hỏi con, con có Phật tánh không? Con chó cất tiếng sủa:"Gâu! Gâu! Gâu!" Sùng Sơn nói: Con tốt hơn so với Thiền sư Triệu Châu.
18/12/2015(Xem: 16737)
Thuở xưa, đức Phật với nắm lá trong tay, hỏi chư tỳ-khưu rằng: “Số lá trong bàn tay của Như Lai, so với lá trong rừng, ở đâu nhiều hơn?” Khi chư tỳ-khưu đáp“Lá trong rừng nhiều hơn”, đức Phật bèn nói tiếp: “Cũng vậy, những thấy biết của Như Lai nhiều như lá cây trong rừng, nhưng những điều Như Lai đem ra giảng nói chỉ như nắm lá ít ỏi trong bàn tay này thôi! Tại sao vậy? Vì những điều không cần thiết, những điều không đem đến cho chúng sanh thấy khổ và diệt khổ, không đem đến giải thoát tham ưu và phiền não ở đời, Như Lai không nói, Như Lai không thuyết!”
17/12/2015(Xem: 7725)
Sau khi dự đám tang của Bác Diệu Nhụy Phan Thị Nhị từ Hannover trở về nhà, không hiểu sao đêm nay tôi luôn trằn trọc thao thức mãi không ngủ yên được. Nhìn đồng hồ thấy đã gần 4 giờ sáng. Có một lực gì vô hình và lòng thương mến đã thôi thúc tôi ngồi dậy để viết lên tâm tư tình cảm của mình trong ngày tang lễ của Bác Diệu Nhụy. Bác Diệu Nhụy ơi, trong cõi hư vô hương linh của Bác còn đâu đó. Tình cảm của hai Bác đã dành cho chúng em khoảng mấy năm trước đây Bác đã nhận và xem chúng em như những người em trong gia đình. Trước giờ ra đi Bác vẫn còn sáng suốt minh mẫn, có lẽ sự giao cảm mến thương giữa hai chị em vẫn còn đâu đây.! Tôi không sao quên được, vào lúc 11 giờ sáng ngày 28.9.2015 tại nhà quàn Babst Hannover, Đức quốc; tang lễ của Bác Diệu Nhụy được cử hành long trọng trong không khí trang nghiêm đầy ấm cúng.
17/12/2015(Xem: 13290)
Trong mùa tu gieo duyên năm nay tại chùa Viên Giác Hannover bắt đầu từ ngày 1 đến ngày 10 tháng 7 năm 2015, có chừng 50 đến 70 Phật Tử tại gia khắp nơi về tham dự. Có người tu liên tục trong 10 ngày, nhưng cũng có người chỉ tham gia trong 5 ngày miên mật cuối cùng, dưới sự hướng dẫn của Thầy Hạnh Giới, Trụ Trì chùa Viên Giác. Đạo Hữu Thông Giác là một Phật Tử tại gia đến từ Neuss, có mang theo một quyển sách thật dày của Thiền Sư Nhất Hạnh do Nắng Mới tại Đức xuất bản tặng cho tôi. Tôi thấy sách dày thì không ngán, nhưng chỉ ngán là không có thời gian. Vì lẽ, tôi hay đọc Đại Tạng Kinh, có quyển dày đến hơn 1.000 trang cũng chẳng có sao cả. Rồi tôi cứ để mặc đó, nhưng kỳ nầy trước khi đi Chicago Hoa Kỳ tham dự lễ tang của Thầy Hạnh Tuấn và đi Ấn Độ, mỗi nơi chỉ có 3 ngày và tôi lợi dụng thời gian ngồi trên máy bay hay thời gian chờ đợi ở phi trường để đọc cho xong tác phẩm nầy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]