Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ân tình Pháp Hội

13/10/201420:22(Xem: 8412)
Ân tình Pháp Hội
 
thich-tue-sy-2

Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn.

Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt.  Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.

 


Bấy giờ Vạn  Hạnh còn là Viện Cao Đẳng Phật Học, đặt trụ sở tại chùa Pháp Hội.[2] Bên dưới là Giảng đường, bên trên Thư viện. Có những buổi trưa trời nắng gắt, kéo hai cái bàn lại để làm chỗ nghỉ trưa. Các sách vở trên kệ đều là của Ôn mang từ Ấn độ về, những sách nghiên cứu trong thời gian làm luận án tiến sĩ, một số ngày nay không còn kiếm đâu ra. Nhưng nếu sau này lên đường Nguyễn Kiệm, sách đã đóng bụi nằm ngỗn ngang trong một phòng nhỏ, bên kia phòng Ôn,  không ai dòm ngó đến, ngoại trừ Ôn thỉnh thoảng còn qua tìm một hai quyển để tham cứu, mà thôi.

chua phap hoi

Ở Pháp Hội, chỉ lưa thưa một vài người đến tìm sách; thấy một vị tăng trẻ, ốm nhom, mắt sáng rỡ, thường ngồi ở góc phòng cố định, viết lách chi đó, viết rồi vụt qua một bên, thỉnh thoảng gió xuyên cửa sổ thổi bay một vài trang giấy vào góc phòng bên kia, cũng không thèm lượm lại, cười sang sảng rồi đi ra. Chốc lát, trở vào, lại ngồi viết nữa. Ngày nào cũng vậy. Tò mò lượm xem, đọc thấy mấy chữ Jean Paul Sartre, Albert Camus... gì đó, lấy làm lạ, chú này mà cũng đam mê chủ nghĩa hiện sinh à, cũng đọc được chữ Pháp à. Thế là sắp xếp mấy tờ giấy học trò lại, lọc cọc đánh máy, bàn máy Remington lịch kịch, mỗi lần đánh sai lại phải dùng thuốc bôi, thổi thổi cho mau khô rồi đánh lại chữ đúng, quả là cổ lổ xỉ so với word processing ngày nay, tha hồ mà thêm chỗ này sửa chỗ kia, bốc cả đoạn đem sang chỗ khác. Nhưng mà rồi cũng xong, sau cả tuần vất vả. Không cám ơn thì chớ, còn hất hàm hỏi:

- Cái gì đây?
- Bài của chú!
- Bài gì?
- Bài chú viết hôm rày. Chú mang qua Thầy Đức Nghiệp xem có đăng trên tạp chí Vạn Hạnh[3] được không.

Nhăn mặt bỏ đi. Ít ngày sau hứng thú chi đó, lại nhát gừng hỏi:
- Bài hôm trước đâu?
- Bài gì?

Thế là cười hỉ hạ, vác xấp giấy đi ra. Tháng sau thấy bài đăng, tên Tuệ Sỹ đàng hoàng.[4] Tức cười khi thấy nhiều người viết là Tuệ Sĩ, trật lất; Tuệ Sỹ, y cà lết, mới thật là Tuệ Sỹ. Bất kể là ngày nay cần nhất thống ngôn từ, nhưng đã hạ bút là Đạo Sanh, thì phải là Đạo Sanh, không được đổi thành Đạo Sinh! Bởi vì trong ngôn ngữ học, văn hóa học, sau này, biết đâu sau này, “bất tri tam bách dư niên hậu...”, có ai tìm kiếm người viết bài đó, thì phải biết y là người sanh ở miền nam, nói rặc tiếng bầy chả bầy chẹt của miền nam, trật âm trật giọng, nhưng nội dung thì không sai, thì đủ để đi vào lịch sử văn học rồi, không cần cải vả thêm phiền phức.

Rồi một loạt bài viết về Thế Thân, Long Thọ, xuất hiện; rồi dịch “Mười tông phái Phật giáo”,[5] thế là đủ uy tín để Ôn hoan hỉ đặc cách mời thỉnh giảng ngay tại Giảng đường chùa Pháp Hội. Ngồi trên ghế cao, chân thỏng hỏng đất cả tấc, bàn nhỏ với tách nước trà, tha hồ sảng khoái thao thao. Không một bằng cấp trong tay, dù chỉ Trung học đệ nhất cấp, mà hiên ngang như thế, quả Ôn là bậc có mắt tinh đời, bất cần thông tục, ân cần khuyến khích hiền tài. Sau đó ít lâu, Ôn Già Lam lại bảo phải thọ Đại giới; thời Mạt pháp “Sa di thuyết pháp Sa môn thính” như kinh Pháp Hoa cho phép là chuyện ‘bất khả tư nghì’, quí thầy ở đó, hạ lạp 5-10 năm, đâu thể ngồi dưới này lắng nghe chú tiểu thượng tòa triết lý?

Chú người nghệ sĩ, phóng khoáng, không khuôn khổ, không chấp nê, không tế toái, không thích oai quyền. Cho nên trên trang tựa của một kỳ Tư Tưởng, lại có mấy dòng chữ nguệch ngoạc, tuồng chữ của Chú : “Trời ơi, tại sao mà Thầy lại nói thế. Tôi mà vì tiền sao, tôi mà biển thủ tiền sao? Trời ơi!” Đó là tiếng thống khổ thét lên từ trong tận cùng sâu thẳm của tấm lòng một tăng sinh nghệ sĩ bất cần đời trước sự ngờ vực của bậc tiền bối.  Buốt thấu ruột gan. Thế rồi dọn về Già Lam, không hề đặt chân đến Vạn Hạnh nữa; cho đến ngày nay.

Rạn nứt âm thầm. Đối với Chú, là đả kích lớn giữa tình nghĩa thầy trò, liên hệ tương giao giữa chỉ hai người. Tuổi trẻ, xem lý tưởng là tuyệt đối. Có biết đâu, Vạn Hạnh là viện Đại học đầu tiên trong lịch sử văn hóa của Phật giáo Việt nam, cần phải làm sao cho xứng đáng với danh vị đó. Cho nên, Ôn ngày đêm lao tâm lao lực, ban ngày thì phải tả xông hữu đột, soạn bài giảng, tiếp khách, để mắt qua công việc văn phòng, giao dịch với những cơ quan quốc tế để trì giữ cho Vạn Hạnh được phát triển và trường tồn. 
 
Trăm chuyện ngàn chuyện, một mình gánh vác, có ai biết không? Cho nên những tên đón gió chạy cờ bên dưới, kể ra hơn 10 đầu ngón tay, có biển thủ chút đỉnh thì có chi là lạ. Thời nào cũng có, nơi nào cũng có; không có mới là lạ. Nhưng mà sao Ôn lại nghi Chú, có phải là vì Chú bấy giờ thị giả cho Ôn, thân cận nhất, không biết ai đáng nghi, nên Ôn hỏi Chú vài câu? Thế mà buồn tủi, bỏ đi.

Tối về, Ôn âm thầm dịch thuật. Ngày xưa, theo tiểu sử của Đại sư La-thập (344-413), có đến  500 người phụ tá dịch kinh, và triều đình vua chúa quan lại sĩ phu ủng hộ.[6] Đến thời đại sư Huyền Tráng (602-664), cũng có cả một ê-kíp rậm ràng.[7] Thánh Đức Thái tử (Shotoku Daishi, 574-622) vừa là Hoàng Thái tử (Crown Prince), vừa là Nhiếp Chánh vương (Regent) cho người cô là Nữ hoàng Thôi Cổ (Suiko, trị vị 592-628) trong thời gian 30 năm (592-622), trong khi viết luận giải cho 3 bộ kinh lớn,[8] có biết bao nhiêu là trợ bút?


Ngày nay, một mình Ôn thui thủi trong căn phòng đơn sơ đầy ắp sách vở, âm thầm dịch thuật, ngày này sang ngày khác; hình ảnh Ôn thường thì chỉ mặc một áo vạt màu trắng, đôi khi có thêm một y vàng đắp ngang qua vai, thật dung dị, thật thoải mái, nhưng cũng thật  nghiêm trang, thật học giả. Nhìn hình Ôn ngồi trước bàn, áo vạt trắng y vàng trệch vai, cặm cúi viết dịch, thật là cảm khái. Ước gì có hạnh duyên làm thị giả chấp bút cho Ôn, ngạo cuồng ôm mộng sánh ngang cùng Tăng Triệu (378-414) chấp bút cho La Thập. Nhưng tiền khiên nghiệp chướng, bao  nhiêu là ràng buộc, trong giới luật, trong phong hóa ngoài đời, khiến không bao giờ có thể thân cận để ước mơ chấp bút được trở thành là sự thật.

Điều ước mong duy nhất bây giờ là làm sao tập thành tất cả những tấm thẻ của Ôn, ghi những thuật ngữ mà khi dịch từ Ba lị sang Việt, Ôn ghi lại, rất nhiều, đựng mấy hộc. Một lần, có ai đó, lên tiếng chỉ trích Ôn còn dở, còn phải tra dò một đống từ điển lốp ngốp trên bàn. Quả thật quê lậu ngu dốt mà làm tài khôn. Trong thế giới học thuật, không ai có thể tự hào tài giỏi hơn ai cả, Ôn rất cẩn mật, nghiêm túc, tra cứu mọi sách vở Đông Tây từng câu từng chữ để khi dịch sang Việt ngữ không sai ý không lệch nghĩa, đó mới chính là học giả chân thật. Cổ đức nói: “Làm y sĩ mà sai lầm thì chết một người, làm chánh trị mà sai lầm thì chết một chế độ, làm văn hóa mà sai lầm thì chết nhiều thế hệ.” Cho nên cần phải thận trọng, không được viết bậy, luận càng.

Làm văn hóa, Ôn làm, suốt trọn cuộc đời, để cống hiến cho Việt Nam toàn bộ căn bản Văn học Phật giáo : bốn bộ A Hàm, mà trong kỳ in lần đầu, dầy cộm, giấy vàng nghệ, chữ in lem nhem. Mỗi khi thiết lập một từ mới, Ôn liền ghi vào một tấm thẻ nhỏ. Một lần về thăm, thấy Ôn lôi ra cho xem mấy hộc tủ đầy ắp những thẻ như thế; biết rằng nếu tập thành được cũng sẽ là một bộ Tự Điển Phật Học Ba lị-Việt Việt-Ba lị 5-7 ngàn trang. Nhưng Ôn đi rồi, ai có nguyện vọng đền trả công ơn của Ôn đây. Người nào cũng khoa bảng, cũng có sự nghiệp riêng tư rồi, ai thèm làm phụ hộ công trình người khác, dầu đó là ân sư?  Bản thân thì đã “thất thập cổ lai hi” rồi, đâu còn trí lực đâu mà múa bút nữa.
htminhchau
H.T Minh Châu kính thăm Bổn sư 
(Đức Tăng Thống Tịnh Khiết ) 
tại Cố Đô Huế.
 
Khi Viện Cao Đẳng Phật Học thành lập, 1964, là do Thượng Tọa [cố Đại lão Hòa thượng] Thích Trí Thủ (1909-1984) làm Giám Đốc, trong khi chờ đợi Thượng Tọa Thích Minh Châu vừa đậu bằng Tiến Sĩ  Phật học tại Viện Đại học Nalanda, thu xếp xong mọi việc, để về đảm nhiệm chức vụ Viện trưởng. 
 
Bấy giờ có 3 người du học Ấn độ, Ôn, ĐĐ Huyền Vi[9] và ĐĐ Pháp Nhẫn. Nơi đó, mặc áo màu lam hay nâu đều bị xem là cư sĩ. Cho nên các vị phải đắp y vàng theo Nguyên thủy. Trước khi chuẩn bị về Việt nam, ba vị bàn nhau là có nên mặc lại áo nâu không. Ôn nói, mình đắp y này quen rồi, thôi cứ vậy đi. Ôn đắp y vàng, nhưng vẫn ăn chay. Gương mặt Ôn đôn hậu, đôi mắt sáng rỡ, hiền từ, bao dung, nụ cười mĩm thật an nhiên, đôi mày dài rũ xuống hai bên; nếu phải mô tả đức Di Lặc, vị Phật của tương lai, thì không hình ảnh nào diễn đạt hoàn mãn hơn được. Ôn lại đắp y vàng, y của Đức Phật, y của truyền thống, một truyền thống căn bản mà cả hai hệ Nam Bắc đều chấp thủ.

Lại nghe một câu chuyện thú vị. Sau khi an trí chỗ ở xong, cả ba kéo nhau đi thăm viếng vị giáo sư hướng dẫn luận án. Đến nơi, nhìn qua cửa sổ, thấy giáo sư ngồi bên trong mặc áo bà ba trắng rất nghiêm túc. Đi qua hàng dậu, một liếp vườn nhỏ, bước lên bực, gỏ cửa, chờ một chút, cửa mở, giáo sư đứng trước khung cửa miệng cười tươi, vui vẻ, bắt tay từng người một, nói nhiều lời chào hỏi, nhưng mà ông chỉ quấn chiếc sà-rông trắng tinh, còn thì mình trần trùng trục, da nâu sậm mầu. 
 
Cả ba ngở ngàng, về lại chỗ ở, thầm thì bàn nhau, không biết tại sao mà ông giáo sư lại khinh bạc bọn chúng mình đến thế, ở trần tiếp khách! Rất lâu về sau, mới khám phá ra phong tục người Ấn, ở trần trùn trục là cách tiếp khách trân trọng nhất, kính quí nhất, để cho thấy, không có dấu diếm gì, chân thật tột độ.[10] Có những ngộ nhận như thế, nhiều vô số kể trong cuộc đời đầy phiền não này, nổi buồn của Chú có đáng chi đâu?

Các nước Phật giáo Nam tông đều có 4 bộ Nikàyas Pàli phiên dịch đầy đủ sang ngôn ngữ địa phương, không những chỉ ở Miến điện hay Thái lan, mà cả Cam bốt, và Lào, những xứ thường bị cho là lạc hậu hơn bốn ngàn năm văn hiến của mình, cũng có. Việt nam, ai cũng hãnh diện là có trên hai ngàn năm lịch sử Phật giáo thế mà một bộ Đại Tạng bằng Việt ngữ, hoặc chữ Nôm, lại không; lèo quèo chỉ có một số các quyển kinh lớn in đi in lại, còn thì phải tìm đọc bản Hán. Đó là một thiếu sót, một thiệt thòi quá lớn. Hơn 30 năm về trước, ngay cả 2 bộ Kanjur và Tanjur của Phật giáo Tây Tạng cũng đã được dịch hoàn chỉnh sang Anh ngữ rồi; chỉ in có 100 bản để tàng lưu tại các thư viện quốc gia những nước văn minh tiên tiến và các đại học nổi danh về nghiên cứu Phật Học.

Bộ Đại Tạng Ba lị là bộ duy nhất được dịch sang Việt ngữ. Công đức của Ôn chỉ trong lãnh vực này cũng đủ sánh ngang với những bậc cao đức ngày xưa, Chân Đế, Khương Tăng Hội, Cưu-ma La-thập, Huyền Tráng, ...; các bậc long tượng vĩ đại này chỉ dịch một phần của Đại tạng Bắc tông, còn Ôn đã độc thân độc mã dịch toàn bộ Đại tạng Nam tông, ai công đức hơn ai?

Ôn còn có những viễn kiến sâu xa, những kế hoạch thực tiễn, như đặc cách gửi người sang du học Đài Loan (HT Tịnh Hạnh,[11] cố HT Đức Niệm,[12] cố Pháp sư Minh Lễ,....), đi Nhật (HT Bảo Lạc,[13] HT Như Điển[14]...) đi Thái (HT Giác Hoàng[15]...), và còn nhiều nữa. 

 

Gửi đi Úc, có ni Tuệ Hạnh, về ngành Thư viện, với mục đích là sau này về làm Thư viện trưởng cho Đại học Vạn Hạnh. Đáng tiếc thay, vì cuồng ngông, vì hiện sinh, vì chán thế, vì hoàn cảnh, tôi đã cô phụ ơn nghĩa của Ôn. Mùa Xuân năm 2000, cùng với một số tăng sinh trẻ quây quần quanh Ôn hàn huyên, Ôn vẫn còn ân cần bảo về đóng góp cho Viện. Tôi thưa: “Xưa Ôn cho con học ngành Thư viện, nay con chỉ về xin lãnh lo cho Thư viện thôi.” Ôn gật đầu. 

Ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Thế mà ngay cả lời trình thưa đó cũng không thực hành được. Nay Ôn ra đi rồi, còn ai để tôi báo ơn? Mà Ôn đâu cần ai báo ơn. Chỉ cần lếu láo tiếp tục một vài bài viết đó đây, những bài chẳng ai thèm đọc, chẳng thèm phổ biến, chỉ là để thỏa mãn cái đầu óc nhiều sinh hoạt trí thức của riêng mình mà thôi; lại cũng chưa học đòi được người xưa, biết ‘thao quang hỗn tích’.


Khi hay tin chị Trí Hải tử nạn trên đường chẩn tế, tôi đã ngồi lặng người. Không biết bây giờ, trên bàn viết, tác phẩm nào đang được Chị dịch dang dở, đang đợi chờ người không còn bao giờ trở về nữa, để hoàn thành, đây? Chị đã dịch trên 70 tác phẩm giá trị, đóng góp không nhỏ cho gia tài văn học Phật pháp Việt nam. Bây giờ Chị nằm xuống, ai tiếp nối công trình của Chị? Vài ngày sau, lại nghe Chú than một câu thắm thiết: “Nghiệp dĩ gì nặng thế? Cả em[16] lẫn chị đều phải lãnh chịu kết cuộc thảm khốc?”  

Dịch thuật được nhiều như thế, đào tạo nhiều ni chúng như sư cô Tuệ Dung có tài như thế, làm được nhiều công cuộc cứu trợ chẩn tế như thế, tất cả đều do nhờ ân đức bảo bọc của Ôn. Vì là người nữ, không thể trú xứ ngay tại Vạn Hạnh, Ôn đặt cách dành cho Chị một am viện nhỏ, sát nách với Vạn Hạnh, để Chị được tự do làm việc, để có thể qua lại Vạn Hạnh dễ dàng, để chăm sóc cho Thư viện[17] với hàng ngàn sách vở phát triễn từ số lượng nhỏ của Ôn. Ngay cả khi dọn về đường Nguyễn Kiệm, Ôn cũng dành Thiền viện Tuệ Uyển cho Chị, ở ngay sau lưng Viện Nghiên Cứu. Sáng nào Chị cũng đích thân làm một bình cà phê sửa tươi, sai người mang đặt trước cửa phòng Ôn, âm thầm cảm nhận ơn đức của Ôn, mà bắt nguồn từ đó,  bao nhiêu công trình dịch thuật độ ni chẩn tế của Chị mới được hình thành.

Trên đường danh lợi, tôi không thành công được gì để Ôn nở mày nở mặt, nhưng tin rằng Ôn rất hoan hỉ vì biết rằng sự chọn lựa cho tôi du học không phải bằng thừa. Ôn đã cho tôi một cơ hội bằng vàng, đọc được các sách Anh Pháp về Phật học, để đừng bị lừa gạt, bởi những tên sum xoe vài ba chữ nghĩa mà nổi danh như cồn, đạo văn công trình nghiên cứu của người khác mà không dẫn chứng xuất xứ, ăn cắp mạo nhận làm của mình. Chỉ biết học đòi theo người xưa: “Ngũ lậu thân thành chướng cấu đa, vi nhi vi nữ khổ bôn ba,” thế nhưng cũng nhờ đó mà bổng nhiên: “kim triêu phương thức trần trung huyễn, hàm tiếu liên bang thổ bích hà”[18] vậy là thoáng chốc tự tại vô ngại, báo đền công đức mà Ôn hơn 40 năm trước đã ân cần trao cho  rồi!

Từ trong lò Vạn Hạnh, nghiễm nhiên đã có nhiều, rất nhiều, vị đã thành danh thành tài, Viện Trưởng, Phó Viện Trưởng, Hòa Thượng, Sư Bà, Giáo sư các trường Đại học Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nga, Đài loan, tiến sĩ, thạc sĩ. Tất cả đều đi qua; chú Sỹ, chú Chiến, chú Cừ, chú  Dũng..., bây giờ cùng đều là Hòa thượng cả. Duy chỉ có công trình của Ôn, một bộ Đại Tạng Ba lị bằng tiếng Việt, là còn để đời, để lại cho hậu thế những lời dạy ngàn vàng của Đức Thế Tôn, Đấng Từ Phụ.

Chú còn được dâng ba nén hương đảnh lễ Giác linh Ôn, tôi chỉ có thể dâng ba nén hương lòng, tưởng niệm những ngày buồn vui trên lầu thư viện Pháp Hội, bùi ngùi cho thế sự vô thường có sanh có tử; chặn giữa con đường sanh tử này, Ôn để lại cho thế hệ ngàn đời sau một gia tài pháp bảo, những thế hệ tiếp nối nhiều tương lai, một bộ văn học đồ sộ mà pháp từ tử tôn ai cũng được hưởng phần, không ai cần tranh dành, cũng không ai tranh dành được.

Hình ảnh Chú y áo chỉnh tề thắp ba nén hương lễ bái Giác linh Ôn là một thông điệp tuyệt vời, riêng với tôi, là một niềm an ủy lớn; như vậy là Chú hết ‘buồn’ Ôn rồi; hình ảnh thật tôn nghiêm, Giác linh Ôn vừa chứng minh cho tâm hồn Chú đã mở hoát ra, để cùng cười và nghêu ngao trong Du hí tam muội: Bạch phát thương nhan, chính thị Duy-ma cảnh giới;[19] bởi vì, ‘nơi cõi đó có một mùa xuân vĩnh cửu, kết tụ thành bụi phấn hoa liễu’ :

Chi thượng liễu miên suy hựu thiểu
Thiên nhai hà xứ vô phương thảo?
(thơ Tô Đông Pha)

Tuệ Hạnh khấp viết,
Việt Đạo Am,
ngày rằm tháng 10, Nhâm Thìn.


________________________________

[1] nay là HT Trụ trì Già Lam

[2] bên kia đường Việt Nam Quốc Tự khi xưa.

[3] Khi ấy TT Thích Đức Nghiệp của Thiền Viện Thanh Minh xuất bản tạp chí Vạn Hạnh trước, nên sau đó Viện Đại học đặt tên cho tạp chí của Viện là Tư Tưởng, Thư ký tòa soạn: Tuệ Sỹ.

[4] Các bài viết này sau in thành sách, tựa: Triết học Tây phương hiện đại- Joseph Maria Bochenski. Tuệ Sỹ dịch. Nxb Ca dao, 1969, dày 432 trang; tái bản: Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh, Saigon 1973.

[5] Nguyên tác: Takakusu Junjiro (Cao Nam Thuận Thứ lang). The Essential of Buddhist Philosophy. Asia Publishing House, 1956. Tuệ Sỹ dịch: Mười Tông phái Phật Giáo. Vạn Hạnh xb, 1968. Tái bản nhiều lần.

[6] 500 tăng sĩ thâm sâu Phật Pháp, được chính Cưu-ma La-thập đích thân chọn lựa, đứng đầu là Đạo Sanh của nhóm Tứ Kiệt, ngồi trong đại sảnh đường, thường khi có cả hoàng đế Diêu Hưng ngự đến tham dự, chú tâm lắng nghe La-thập đọc bản Phạn văn, để tạm chuyển ngữ sang chữ Hán, ghi chép, thảo luận từng chữ từng câu, lắng nghe, góp ý, bàn cãi sôi nỗi, mới cuối cùng quyết định dùng câu gì chữ gì để vừa đúng văn thể Trung hoa vừa không đánh mất chân nghĩa của nguyên bản.

[7] Đại Đường Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện, Taishō q. 50, mục số 2053, q. 6 cho biết rằng vào năm Trinh Quán 19 (tức 645 stl), khi đại sư Huyền Tráng dịch kinh ở Hoằng Phước tự, có 12 vị Chứng Nghĩa, 9 vị Chuyết Văn, 1 vị Tự Học (字學大德), 1 vị Chứng Phạn ngữ Phạn văn (證梵語梵文大德) phụ tá.

[8] Thắng Man kinh Nghĩa Sớ, Pháp Hoa kinh Nghĩa Sớ, Duy ma kinh Nghĩa Sớ làm nền tảng cho sự phất triễn Phật giáo tại Nhật bổn.

[9] Cố HT Huyền Vi sáng lập Giáo Hội Linh Sơn toàn cầu, nay do Hòa thượng Tịnh Hạnh truyền thừa

[10] Chuyện do HT Thích Pháp Nhẫn, trụ trì chùa Liên Hoa, Dallas, kể lại.

[11] Tông trưởng Gíao hội Linh Sơn Quốc tế, Đài loan

[12] Sáng lập Phật học viện Quốc tế, Los Angeles

[13] Trú trì, Chùa Pháp Bảo, Sysney, Úc

[14] Trú trì, Chùa Viên Giác, Đức

[15] Giáo phụ, Tu viện Linh Sơn, Paris, Pháp

[16] tức Tôn nữ Phùng Thăng..

[17] Ni sư TN Trí Hải làm Thư viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh từ 1966 đến 1975

[18] (五陋身成障垢多、爲兒爲女苦奔波、今朝方識 塵中幻、含笑蓮邦吐碧荷, xấu xí thân hình tội chướng đa, làm thân người nữ khổ bôn ba, sáng nay mới biết trong trần huyễn, cười mĩm Liên Bang nở sen hoa).”. Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍Tục Tạng Kinh bộ 62, mục số 1204, quyển 3)

[19] kinh Duy Ma Cật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2020(Xem: 7567)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Chưa lúc nào bản thân chúng tôi thấm thía Lý Duyên Sinh Phật dạy như lúc này. Quả thật..''Cái này sinh thì cái kia sinh'', chân lý này vận hành trong mọi sự vật và mọi sự kiện, bởi vậy một khi Dịch Covid còn kéo dài là nạn đói xứ Ấn còn tiếp tục lê thê..
29/10/2020(Xem: 4631)
Dharamshala: Liên Hiệp Quốc (LHQ) đã thông báo Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân đã được 50 quốc gia phê chuẩn là Honduras, cho phép “văn bản lịch sử” bắt đầu có hiệu lực sau 90 ngày. Khôi nguyên Nobel Hòa bình, lãnh tụ tinh thần lưu vong của Tây Tạng, là người ủng hộ suốt đời cho việc giải trừ vũ khí hạt nhân, Đức Đạt Lai Lạt Ma hoan nghênh thông tin, ca ngợi hiệp ước “một bước đi đúng hướng để tìm ra những thỏa thuận sáng suốt và văn minh hơn để giải quyết xung đột”.
29/10/2020(Xem: 4794)
Cư sĩ Phan Cơ Văn (Ban Ki-moon-반기문-潘基文, hậu duệ cụ Phan Huy Chú, Việt Nam), cựu Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc, đương nhiệm Chủ tịch “Hội đồng quốc gia về khí hậu và chất lượng không khí” đã đến viếng cố Cư sĩ Lee Kun Hee (Lý Kiện Hy, 이건희, 李健熙), pháp danh Trọng Đức (중덕-重德), pháp hiệu Trọng San (중산- 重山), Đại hộ pháp (대호법-大護法), đệ tử tông phái Phật giáo Won Hàn Quốc, nhà tư bản công nghiệp, doanh nhân Phật tử, tỷ phú người Hàn Quốc, Chủ tịch Hội đồng Quản trị tập đoàn Samsung tại nhà Tang lễ Bệnh viện Samsung, Ilwon-dong, Gangnam-gu, Seoul lúc 3:06 chiều ngày 26 tháng 10 năm 2020. Khoảng 15 phút phúng viếng và chia buồn cùng tang môn hiếu quyến. Ngay sau khi lễ viếng và chia buồn, Chủ tịch Samsung Electronics Cư sĩ Lee In-yong đã đưa tiễn Ngài cựu Tổng Thư ký LHQ ra về. Ảnh: Jeong Ye-rin
27/10/2020(Xem: 6120)
Thấm thoát mà hôm nay ngày 11.8. Canh Tý, nhằm chủ nhật 27.9 đã thất tuần rồi. Dì dâng hương hoa cúng Mười Phương Chư Phật cũng như cơm canh để cúng cửu huyền thất tổ, hương hồn con linh thiêng về đây cùng ngồi tụng kinh Địa Tạng với dì, dì cháu mình cùng đảnh lễ xưng danh hiệu chư Phật phẩm thứ chín hầu mong đem lại lợi ích được cho tất cả những loài hữu hình hay vô hình nếu ai đó hữu duyên để lắng nghe lời Phật dạy:
26/10/2020(Xem: 6246)
ại hộ pháp (대호법-大護法), đệ tử tông phái Phật giáo Won Hàn Quốc, nhà tư bản công nghiệp, doanh nhân Phật tử, tỷ phú người Hàn Quốc, Chủ tịch Hội đồng Quản trị tập đoàn Samsung, thành viên Ủy ban Thế vận hội Quốc tế, Cư sĩ Lee Kun Hee (Lý Kiện Hy, 이건희, 李健熙), pháp danh Trọng Đức (중덕-重德), pháp hiệu Trọng San (중산- 重山) đã an nhiên trút hơi thở tại Bệnh viện Samsung Seoul (seoul) về cõi Phật vào buổi sáng hôm Chủ nhật, ngày 25 tháng 10 năm 2020, hưởng thọ 78 tuổi.
26/10/2020(Xem: 8292)
- Trong tuần qua, chúng con chúng tôi đã thực hiện một buổi phát chẩn tại 2 ngôi dọc theo dòng sông Ni Liên thuyền, cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Vì bận điều hành cứu trợ lụt ở VN nên chúng con, chúng tôi chậm trễ tường trình, mong quị vị hoan hỉ cho!.. - Buổi phát chẩn đã thực hiện cho 304 hộ nghèo. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD, trị giá mỗi phần quà là 9.50usd.(Bên cạnh đó là những phần phụ phí cần phải trả như $ mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, Tip cho những người bảo vệ và sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
25/10/2020(Xem: 7974)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên. Của hương hỏa là gia tài của ông bà cha mẹ để lại. Người “thừa kế ” được chỉ định trong cương vị này được gọi là “người thừa tự ”, mà người thừa tự phải là người con trai trưởng trong gia đình. Thông thường những gia đình giàu có sở hữu một công ty hay một xí nghiệp, khi chủ nhân nghỉ hưu, người được thừa kế cơ nghiệp là người con trai trưởng trong gia đình. Vì người xưa có quan niệm như thế, nên nam nữ khi thành hôn với nhau đều mong muốn sớm sinh một cậu quý tử để nối dõi tông đường. Đó là điều trông đợi của ông bà, cha mẹ nhà chồng.
24/10/2020(Xem: 5261)
Trưởng thành tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc, tôi cảm thấy thành phố cứ tấp nập người đông sinh hoạt không ngừng như bánh xe thời gian cứ mãi chuyển động. Nhà hàng mở cửa 24 giời. Biển báo đường phố không bao giờ tắt. Karaoke Hàn Quốc xuyên đêm. 51 triệu người – một dân số lớn hơn tổng dân số kết hợp giữa Texas và Florida, Hoa Kỳ - sống trong một quốc gia có diện tích bằng một nửa New England. Vì vậy, như các bạn có thể tưởng tượng, không gia cá nhân là thứ mà các bạn mơ ước trong giấc ngủ.
23/10/2020(Xem: 5770)
Danh lam thắng tích Sigiriya Lions Rock (सिगिरिया) (Núi Đá Sư tử) Phật giáo cổ Sri Lanka là một ngôi cổ thành và cung điện ở bằng đá ở miền trung Matale thuộc Sri Lanka, cũng là một tu viện Phật giáo cho Chư tôn đức tăng già tu tập trong thời đó. Ngôi danh lam thắng tích này được xây dựng trên ngọn núi đá khổng lồ cao gần 200 mét, vào thế kỷ thứ 5, dưới triều vua Kassapa I (477 – 495).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]