Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chiến thắng sợ hãi

11/10/201411:33(Xem: 8699)
Chiến thắng sợ hãi

Thai Ha book (3)

18 giờ tối ngày 9/10/2014, đông đảo Phật tử, doanh nhân, sinh viên và các bạn yêu đọc sách đã được học hỏi rất nhiều từ thiền sư Minh Niệm, tác giả cuốn sách “Hiểu về trái tim” tại nhà sách Thái Hà ( số 119, C5, phố Tô Hiệu, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Cá nhân tôi cũng vậy. Tôi học được rất rất nhiều. Thầy Minh Niệm đã chia sẻ nhiều trải nghiệm sâu sắc, phong phú của chính thầy đến với những ai may mắn có mặt để giao lưu, để lắng nghe. Đối với rất nhiều người, đó là những điều mới mẻ và hữu ích.

Thầy Minh Niệm, tác giả của một cuốn sách sâu sắc như vậy mà sinh năm 1974. Thầy còn quá trẻ nhưng lại viết được một tác phẩm vô cùng có giá trị và xúc động. Thầy có 12 năm sống và tu học tại Pháp và Mỹ. Tuy nhiên, trái tim thầy vẫn luôn quan tâm về Đạo Pháp ở quê hương Việt Nam. Bởi vậy thầy luôn có những trải nghiệm đa chiều về văn hóa và cuộc sống ở hai quốc gia cách nhau nửa vòng trái đất.

Người Mỹ có thể văn minh về vật chất và khoa học, nhưng người Việt Nam văn minh về tâm linh và tình cảm. Cuộc sống vật chất và tinh thần của người Việt lâu nay luôn có sự quây quần trong gia đình, có sự hòa đồng và chia sẻ với làng xóm bạn bè. Trong khi người Mỹ sống độc lập song cô đơn, vì luật lệ qui định tôn trọng không gian riêng và quyền tự do của công dân Mỹ.

Chính vì họ sống nguyên tắc biệt lập, nên cũng có lúc người Mỹ rất muốn sống có tình cảm bên gia đình sum họp như ở Á Đông, đặc biệt là vào những lúc gặp khổ đau và những cú shock về tình cảm. Cuộc sống tình cảm của người Mỹ khá là cô đơn, vì họ không muốn nhờ bạn bè chia sẻ động viên mình và không nghĩ rằng bạn bè phải có trách nhiệm về mình, do thói quen sống tự lập của họ. Bởi vậy, khá nhiều người Mỹ mắc bệnh trầm cảm, dù kinh tế và khoa học phát triển.

Thai Ha book (1)

Thầy Minh Niệm chia sẻ rằng hạnh phúc có mặt ở những nơi vắng bóng văn minh của nhân loại. Ở đó sự tư lợi hưởng thụ hạnh phúc cá nhân được thay thế bằng sự đồng cảm , tình thương yêu dành những điều tốt đẹp cho người. Ở đó con người sống chân thật tự nhiên và tình nghĩa.

Thầy chia sẻ với đại chúng rằng, dường như nhờ những năm tháng thầy nhập thất tu thiền trên núi hoang sơ vắng bóng con người, nên sau này xuống núi thầy đã cảm động khi nhìn thấy hình bóng con người đi trên đường, một hình ảnh thân quen mà lâu rồi mới gặp lại; từ đó nhận thấy sự bình yên và tình người đáng quý vô cùng, và thầy trân trọng đồng loại giữa vô thường, tâm hồn trở nên rộng mở.

Đối với người tu Phật, tâm hồn họ không còn sự phân biệt người tốt người xấu, người hay người kém. Tuệ giác nhờ thiền định giúp họ tách biệt giữa bản chất và hiện tượng.

“Mặt hồ nhăn nhó do gió thổi

Ngọn núi già do tuyết phủ quanh năm”

Tức là mặt hồ vốn trong nhưng ta nhìn thấy nó nhăn nhó (sóng lăn tăn) là do gió thổi. Còn núi vốn trẻ nhưng ta trông già vì có tuyết bao phủ trên đầu! Bản chất con người vốn thiện, nên có lúc nào đó trong đời, bản chất thiện lành của họ bị vô minh tham sân si che khuất thì cái chưa tốt đó chỉ là hiện tượng gió thổi tuyết phủ. Bản chất của mỗi con người chúng ta không xấu hoàn toàn và xấu mãi được, mà chỉ trong một thời điểm nhất định mà thôi.

Thai Ha book (4)

Sự tồn tại của người đem lại sự tồn tại của mình, cũng như hoa hồng được tạo nên bằng những yếu tố không phải hoa hồng như đất và nước, hạt giống. Vậy tu về tâm là tôn trọng người khác như thể tôn trọng chính mình, yêu người như thể thương thân mình. Sống một cuộc đời hạnh phúc như vậy thì cuộc sống đó dù ngắn hay dài đều đẹp và đáng quý.

Cuộc sống này còn đáng quý hơn, sau khi thầy Minh Niệm đã trải nghiệm ranh giới sinh tử qua 6 lần đối diện với cái chết ở đèo tử thần, trong hành trình 8 tháng đi qua 52 tiểu bang của Mỹ. Đó là những lần gặp sư tử rừng, gặp bão cát sa mạc, nhảy xuống vực cứu người, bị lạc trong rừng và kiệt sức, đứng trên đèo chờ xe thì xe tông vào người, một lần khác có người cho thầy quá giang thì thầy bị rơi xuống đèo.

Khi trải qua một hành trình dài với nhiều gian nguy thử thách như vậy, thầy đã ngồi tĩnh tâm để tự nhắc mình cần hoàn thành hành trình mình đã chọn. Tu hành đối với thầy là dấn thân vào thử thách và gian khổ hiểm nguy để tôi luyện bản lĩnh và bản năng thương người giúp người. Lúc đó thầy quán chiếu cái thân tứ đại này là vay mượn và là không thật có, thầy liền thấy giải thoát tự tại. Khi gặp hiểm nguy quá trong những chuyến đi tu bụi, lúc nhập thât, thầy Minh Niệm tự nhủ: nếu số phận cho thầy ở lại tiếp tục sứ mạng hoằng Pháp thì thầy sống tiếp, còn nếu không thể tiếp tục, thầy cũng hiểu rằng kiếp sống này không phải kiếp sống duy nhất, cái kết thúc đời sống này là sự mở đầu cho một cuộc sống mới.

Người tu Phật phải biết chiến thắng nỗi sợ hãi, phải biết giải thoát tự tại giữa ranh giới sinh tử, kẻ cả đối diện với cái chết. Tất cả để tôi luyện theo phẩm chất đại hùng, đại lực, đại bi, đại tri của Đức Phật và Tăng đoàn thuở trước.

Học tập theo tấm gương của thầy Minh Niệm đã chiến thắng nỗi sợ hãi trong hành trình gian khổ hiểm nguy, Phật tử tại gia chúng ta có thể học thiền và hành thiền để có thể đối trị những nỗi sợ hãi từ nhỏ nhặt trong cuộc sống thường ngày với nhiều điều kiện thuận lợi đến những nỗi sợ lớn hơn ví dụ như lo sợ tâm mình nhiễm độc tham sân si thêm lần nữa.

Thiền Phật giáo có mặt ở phương Tây hơn 100 năm, đến nay Thiền vẫn là lối sống lành mạnh của đa số người  dân Mỹ cũng như người dân Việt Nam. Hành thiền là khả năng quán sát ý nghĩ khởi và diệt, lời nói và việc làm của chính mình, hay còn gọi đó là khả năng chính niệm. Tuổi hành thiền đẹp nhất của con người là khi có ý thức về cuộc sống. Sống thiền là làm mọi việc, mọi thứ trong tỉnh thức và chuyển động một cách nâng niu, đầy trân trọng và yêu thương đối với mọi vật và mọi người, nhờ đó tâm hồn tự nhiên tươi vui tràn đầy năng lượng.

Tu thiền là liệu pháp hàn gắn những mảnh vỡ của tâm hồn con người qua mỗi lần gặp sóng gió khổ đau trong đời. Vì sự lắng đọng an tĩnh của thiền giúp tâm trí con người hướng vào bên trong để nhận diện và phát triển nội lực để cảm nhận sự bình yên trong lúc ở một mình :

“ai mà không thích kết thân

Với người thế tục hay hàng xuất gia

Lang thang đơn độc, không nhà

Không còn ham muốn dục tình

Bà la môn thật xứng danh”

( kệ 404, phẩm Bà la môn, kinh Pháp Cú).

Hành thiền cần động lực chính đáng thì người tu đạt được kết quả tốt đẹp. Thân bệnh được chữa lành do tâm được hồi phục. Bởi mọi bệnh tật thường gặp đều bắt nguồn từ sự căng thẳng trong cuộc sống thiếu chính niệm. Bệnh tật và cái chết là một trong những nỗi lo sợ thường trực của con người, nay đã được giải thoát.

Thai Ha book (1)

Buổi giao lưu đã hoàn mãn trong niềm hỷ lạc của thầy trò chúng tôi, nhờ những hiểu biết đáng quý về cuộc sống. Và đặc biệt trong thời gian tới Thầy Minh Niệm sẽ gửi đến các thiền sinh những cuốn sách tiếp theo đó là “Nhìn vào bên trong” và “100 bước tu thiền”, 100 bước để khám phá thế giới nội tâm cho từng trình độ.

Chúng con biết ơn Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng – Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Thái Hà Books là doanh nhân Phật tử tu thiền trên 10 năm nay đã dẫn dắt rất thành công buổi tọa đàm. Những chia sẻ rất quý báu và những trả lời thắc mắc của người nghe làm ai cũng hoan hỷ. Những ai có mặt đã học được cách chiến thắng nỗi sợ hãi, cách chiến thắng chính mình. Bây giờ chỉ còn là thực hành mà tôi

DIỆU HÒA

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 10387)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9196)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6495)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8883)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5063)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5263)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5693)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4560)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5151)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4718)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]