Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự giàu có của người keo kiệt

30/07/201419:36(Xem: 7243)
Sự giàu có của người keo kiệt

Buddha_23

Trong Samyutta Nikaya (Kinh Tương Ưng Bộ) có một bản kinh tên là Aputtaka-sutta, đánh số SN,III, 19, có nội dung được dịch như sau:

Chuyện xảy ra ở thành Savatthi (Xá-vệ). Bấy giờ, vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) xứ Kosala (Kiều-tát-la) đến viếng Đức Phật vào giữa trưa, khi đến, vua cung kính chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi vua vừa ngồi xuống, Đức Phật hỏi: ‘Này đại vương, ngài đi đâu mà đến đây vào giữa trưa thế?’.

‘Bạch Thế Tôn, mới rồi, một gia chủ giàu có ở thành Savatthi này qua đời mà không có con thừa kế. Con vừa cho chuyển tài sản của ông ta vào kho của hoàng cung; những tám triệu đồng tiền bằng vàng chưa kể số tiền bằng bạc. Mặc dù là một gia chủ giàu có, thế nhưng bữa ăn hằng ngày của ông ta thì chỉ là cháo nấu bằng gạo nát với bánh làm bằng đậu khô; y phục vỏn vẹn chỉ có ba mảnh vải dệt bằng sợi gai; phương tiện di chuyển là chiếc xe bò gãy gọng nóc lợp bằng rơm’.

‘Đúng là như vậy, này đại vương, đúng là như vậy. Khi một kẻ thiếu rộng lượng có được tài sản lớn, y không biết tiêu xài để mang lại niềm vui và sự toại nguyện cho chính mình, không biết mang lại niềm vui và sự toại nguyện cho cha mẹ, không biết mang lại niềm vui và sự toại nguyện cho gia đình, không biết mang lại niềm vui và sự toại nguyện cho người hầu, tôi tớ, người làm công, không biết mang lại niềm vui và sự toại nguyện cho bạn bè, người cộng sự; đối với các người tu hành thì y cũng không cúng dường hầu mang lại kết quả tốt lành để được tái sinh nơi thiên giới. Nếu tài sản không được sử dụng đúng cách, thì rồi cũng sẽ bị vua quan tước đoạt, hoặc bị trộm cắp, hoặc hỏa hoạn thiêu hủy, hoặc bị nước cuốn mất, hoặc rơi vào tay những kẻ thừa kế xấu xa. Vậy, tài sản của y nếu không được đem ra sử dụng đúng cách thì cũng chẳng có lợi ích gì.

Này đại vương, đấy chẳng khác gì một cái hồ nước ở vào một nơi hoang vắng, đầy nước trong, mát, sạch, lại ngọt lành, thế nhưng chẳng ai đến đấy được để uống, để tắm, hoặc để dùng vào việc này hay việc nọ. Nếu nước không được sử dụng đúng cách thì cũng sẽ phí phạm đi. Cũng thế, một người thiếu rộng lượng có tài sản lớn không biết mang ra tiêu xài thì cũng chẳng lợi ích gì.

Thế nhưng nếu đấy là một người rộng lượng có được tài sản lớn, biết tiêu xài để mang lại niềm vui và sự toại nguyện cho mình, mang lại niềm vui và sự toại nguyện cho cha mẹ, mang lại niềm vui và sự toại nguyện cho gia đình, mang lại niềm vui và sự toại nguyện cho tôi tớ, kẻ hầu cận và người làm công, mang lại niềm vui và sự toại nguyện cho bạn bè và những người cộng sự; biết cúng dường người tu hành hầu tạo được công đức giúp mình tái sinh nơi thiên giới. Vì thế nếu tài sản của người ấy được sử dụng đúng cách thì sẽ mang lại lợi ích.

Này đại vương, đấy chẳng khác gì một hồ nước ở gầnmột ngôi làng hay một thị trấn, đầy nước trong, mát, sạch, lại ngọt lành, và mọi người đều có thể đến đấy để uống, để tắm, để dùng vào việc này hay việc nọ. Nếu nước được sử dụng đúng cách thì sẽ không bị phí phạm đi. Cũng thế một người rộng lượng có tài sản lớn, biết mang ra tiêu xài đúng cách sẽ mang lại lợi ích.

Đấng Thế Tôn thuyết giảng như thế. Sau khi thuyết giảng như thế, bậc Đạo Sư đọc thêm bài kệ:

Một hồ nước mát, Nơi chốn hoang vu,

Không ai đến được để uống, Thì nào có khác gì,

Tài sản của một kẻ keo kiệt, Không biết tiêu xài,

Cũng chẳng biết hiến dâng.

Một người thức thời và rộng lượng, Có của cải và biết tiêu xài,

Nuôi dưỡng mẹ cha, Và giúp đỡ bạn bè.

Với tấm lòng luôn rộng mở,

Hắn sẽ tái sinh nơi cõi thiên nhân.

(Samyutta Nikaya, I, ed. PTS, 1884-1898, 91-92)

Giới luật Phật giáo cấm người xuất gia không được giữ bất cứ một thứ gì gọi là của riêng. Thế nhưng đối với người thế tục thì giới luật không cấm đoán họ làm giàu, nếu làm giàu bằng những phương tiện sinh sống đúng tức chánh mạng trong Bát chánh đạo. Giáo pháp nhà Phật cũng luôn nhắc nhở: “Phải biết sử dụng tài sản và giúp đỡ người khác”. Thật thế, có rất nhiều kinh sách đề cập đến vấn đề này, khuyên người thế tục phải tiêu dùng các nguồn lợi nhuận mà mình thu góp được để mang lại hạnh phúc, nuôi nấng mẹ cha, giúp đỡ bạn bè, cấp dưỡng cho người tu hành (Anguttara Nikaya, III, 259); phải kiếm tiền một cách lương thiện, tức không gây ra thiệt hại cho các chúng sinh khác (lường gạt, buôn bán các chất độc hại hay các thứ gây ra nghiện ngập, hay chăn nuôi súc vật để giết thịt…), không gây thiệt hại cho môi trường thiên nhiên (chặt cây, phá rừng…), và nhất là phải chia sẻ sự giàu có với những người chung quanh, và phải luôn tự cảnh giác không được để vướng vào các thứ cảm tính kiêu căng (Anguttara Nikaya, I, 181), v.v.

Nói chung, đối với người thế tục, Phật giáo không ngăn cấm việc tìm kiếm những thứ thích thú “giác cảm”, dù đấy chỉ là những thứ hạnh phúc hời hợt và tạm bợ, bởi vì Phật giáo ý thức được là không thể nào giúp tất cả mọi người trong chốc lát có thể quán thấy được nguồn gốc sâu xa của khổ đau phát sinh từ những thứ hạnh phúc ấy. Dầu sao thì những niềm hạnh phúc tạm bợ đó ít ra cũng tránh cho họ được phần nào những thứ khổ đau thật thô thiển, chẳng hạn như hận thù, hung dữ, ích kỷ, tham lam, keo kiệt, bủn xỉn… Vì thế trong bài kinh trên đây Đức Phật khuyên những người có của cải nên đem ra tiêu xài để mang lại “niềm vui và sự toại nguyện cho chính mình, cho cha mẹ và những người chung quanh”.

Cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm mà Đức Phật đã nêu lên tệ nạn nghèo đói và xem đấy là một sự bất công trầm trọng của xã hội:

“Khi sự giàu có không được chia sẻ cho người nghèo, thì tình trạng nghèo đói lại càng gia tăng. Khi tình trạng nghèo đói gia tăng, thì trộm cắp cũng gia tăng. Khi trộm cắp gia tăng, thì con số khí giới (để tự vệ và trừ khử bọn cướp giật) cũng sẽ gia tăng. Khi khí giới gia tăng thì việc sát nhân cũng gia tăng” (Anguttara Nikaya, III, 68).

Ngày nay dân số trên địa cầu đã lên tới bảy tỉ người, tình trạng nghèo đói trở nên trầm trọng hơn bao giờ hết. Ủy ban Nhân quyền của cơ quan Liên Hiệp Quốc cho biết là cứ mỗi năm giây thì lại có một đứa bé chết vì đói. Con số khí giới trên hành tinh này cũng theo đó mà gia tăng, có khi còn nhiều hơn cả sự cần thiết, để thích nghi với sự nghèo đói đang gia tăng ấy, hầu để bảo vệ miếng ăn cho một số người, trong số đó biết đâu cũng có cả chúng ta.

Phật giáo luôn luôn khuyến khích các hành động từ thiện cùng việc bố thí (dâna) và xem đấy là những điều xứng đáng tạo ra nghiệp lành cho kiếp sống hiện tại và cho cả các kiếp sống tương lai. Không nên “ăn một mình” và “làm ngơ” trước cái đói của kẻ khác. Những gì mình được hưởng hôm nay là nhờ vào những gì xứng đáng mà mình đã tạo được trong các kiếp trước, thế nhưng nếu chỉ biết sống một cách bần tiện, keo kiệt thì tránh sao khỏi sẽ tái sinh trong một hoàn cảnh đói nghèo. Đấy là những gì sơ đẳng nhất trong giáo lý nhà Phật.

Thế nhưng oái oăm thay, nào có mấy người trong chúng ta lại tự nhận là mình giàu có đâu. Gặp nhau thì than thở, nào là chứng khoán dạo này tuột nhanh quá, không biết rằng như thế thật là dại vì tiền dư bao nhiều là dồn cả vào đấy cho mất toi, trong khi đó thì tiền mua nhà trả góp cho ngân hàng còn hơn chục năm nữa mới hết; hoặc tệ hơn nữa là than rằng hôm qua vừa dốc túi mua mấy chục tấm vé số mà chẳng trúng được đồng nào. Tết nhất đến nơi, còn phải quà cáp biếu xén cho thầy cô của bọn trẻ. Vật giá thì gia tăng, thế nhưng lại phải ăn Tết cho ra vẻ với người ta chứ…, toàn là nợ nần và các chuyện phải tiêu xài. Thương thay cho sự túng quẫn của họ.

Thật vậy, có mấy ai nhìn thấy cái “giàu có” của mình đâu? Của cải thật ra chỉ là những con số vô nghĩa, sự giàu có đích thật là ở trong đáy tim mình. Tết nhất đến nơi, khi ra đường ta trông thấy một đứa bé lang thang, rách rưới, đen đúa và bẩn thỉu đang đứng nhìn những chiếc quần áo mới treo lủng lẳng trong các cửa hàng, đôi khi cũng khiến cho ta phải bật khóc. Những giọt nước mắt ấy mới đúng thật là sự giàu có, tuy yên lặng thế nhưng rạt rào như đại dương mênh mông.

Ngoài ra còn có một sự giàu có khác nữa mà tất cả mọi người đều ngang hàng nhau, không thể vin vào đấy để ganh tị hay so đo với nhau được. Đấy là tất cả mọi người trong chúng ta đều có hai mươi bốn giờ trong một ngày. Chúng ta sử dụng chúng như thế nào? Phải chăng để xem phim Hàn Quốc bất tận, xem cô này “yêu” cậu kia, cậu kia “thương” cô khác, ghen tuông, khóc lóc, đủ mọi chuyện éo le, gay cấn? Hay là chúng ta thích sang nhà hàng xóm tán gẫu hay đánh bài, hoặc rủ nhau đi quán nhậu, đi uống “cà-phê vườn”, “cà-phê đèn mờ” để nghe nhạc “trữ tình” bất tận? Đấy là một sự phung phí lớn lao nhất của kiếp con người, tương tự như chúng ta có một cái “hồ nước mát và tinh khiết”, thế nhưng không biết lấy nước ấy để tắm và cũng không có ai đến được để uống một ngụm nào, cứ để cho nước tràn đi và thất thoát.

Nếu biết sử dụng những giây phút quý báu của kiếp người để học hỏi, tự trau dồi hầu giúp mình trở nên những con người xứng đáng hơn và cao cả hơn, thì những giây phút ấy sẽ trở thành một gia tài kếch xù, một nguồn tài nguyên bất tận và vô giá. Đấy cũng là một cách “mang ra tiêu xài của cải của mình một cách thích đáng”. Nếu quay nhìn lại quãng đời đã trải qua thì mỗi người trong chúng ta cũng nên tự hỏi xem mình đã phí phạm bao nhiêu giây phút quý báu ấy của kiếp nhân sinh này.

Tuy nhiên cũng có thể có người phản kháng lại và cho rằng việc học hỏi và tu tập vượt quá khả năng của họ. Thật vậy, những gì mình muốn thu đạt được từ bên ngoài thì có thể đòi hỏi nhiều cố gắng và kiên trì, thế nhưng những gì phát xuất từ đáy tim mình thì cũng không đến đỗi khó khăn gì cho lắm. Chẳng hạn, nếu trông thấy cha mình ngồi trong yên lặng, bâng khuâng nhìn ra đường, thì rót một tách nước trà để mời cha rồi ngồi xuống với cha vài phút, nếu trông thấy những nét u uẩn hiện lên trong đôi mắt của mẹ thì cố tìm một vài lời ngọt ngào để gợi chuyện với mẹ, nếu không thì cũng có thể chạy sang nhà hàng xóm chơi đùa với mấy đứa trẻ con để cho mẹ chúng có thì giờ dọn dẹp nhà cửa hoặc bắc nồi cơm lên bếp. Những việc nhỏ nhoi như thế nào có khó khăn gì đâu, dần dần rồi ta sẽ có thể thực hiện được những việc khó khăn hơn, ít ra thì những giây phút đó cũng ích lợi hơn là ngồi xem“Cô gái Đồ Long” tung chưởng hết hiệp này sang hiệp khác, đến khi đứng lên thì uể oải, tâm trí trở nên đờ đẫn và ù lì.

Tóm lại, hãy hiến dâng những gì mình có trong hai tay, trong đáy tim mình và cả những giây phút của kiếp người này. Chúng ta luôn luôn giàu có hơn là chúng ta tưởng vì thế đôi khi cũng nên nhìn lại xem mình có keo kiệt lắm hay không. Thiển nghĩ bài kinh trên đây dạy cho chúng ta hiểu rằng những gì chúng ta ôm lấy khư khư chẳng những không ích lợi gì mà chúng sẽ mất đi vào một lúc nào đó.

Để thay cho phần kết luận cũng xin trích thêm một bài kinh khác thật ngắn mang tên là Aditta-Sutta, tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya, I, 41). Aditta có nghĩa là bốc cháy, do đó có thể tạm dịch bài kinh này là bài Kinh về Hỏa Hoạn. Khi một căn nhà bốc cháy thì những gì cất giấu trong đó sẽ hóa thành tro bụi, chỉ có những gì đã mang cho người khác thì mới còn lại mà thôi.

Thế nhưng đâu phải chỉ có một gian nhà bốc cháy mà cả thế gian này đang bốc cháy theo cùng với sự già nua và cái chết. Theo định nghĩa của Phật giáo thì quá trình của sự già nua bắt đầu từ khoảnh khắc tiếp nối ngay sau khi thụ thai, và cái quá trình đó vận hành không ngưng nghỉ cho đến lúc cái chết xảy ra. Vì thế tất cả chúng sinh trong thế giới này, không có một ngoại lệ nào cả, đều đang bị ngọn lửa của vô thường thiêu đốt. Một người tu tập khi đã ý thức được ngọn lửa mênh mông đó đang thiêu đốt thân xác mình và cả thế gian này, thì sẽ không còn nghĩ tới việc so kè từng xu mà phải biết nhìn lại xem trong hai tay mình còn lại những gì để hiến dâng cho kẻ khác.

Bối cảnh của bài kinh này thật thi vị và thiêng liêng. Đức Phật đang ngồi thiền yên lặng giữa đêm khuya nơi ngôi vườn Kỳ Viên thì có một nữ thiên nhân (devata) hiện ra, ánh hào quang soi sáng cả khu vườn. Vị nữ thiên nhân tiến đến gần Đấng Thế Tôn và đảnh lễ, rồi ngồi sang một bên. Đấng Thế Tôn cảm ứng cho vị nữ thiên nhân hát lên bài hát của một trận hỏa hoạn để hàng ngàn đệ tử của Ngài và các người thế tục đang mơ màng trong khu vườn có thể lắng nghe giữa đêm thâu thanh vắng. Sau đây là phần chuyển ngữ toàn bộ của bài kinh trên đây dựa theo bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh của Thanissaro Bhikkhu (The Access to Insight, June, 2010):

“Tôi từng được nghe như thế này: Có một lần Đấng Thế Tôn đang ngụ tại tịnh xá của ngài Anathapindika (Cấp Cô Độc) trong khu vườn Kỳ Viên, gần thành Savatthi. Vào lúc nửa đêm, hiện ra một nữ thiên nhân tỏa ánh hào quang chiếu sáng cả khu vườn. Vị nữ thiên nhân tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Sau khi ngồi sang một bên thì cất tiếng để hát lên bài hát sau đây:

“Khi căn nhà bốc cháy,

Những gì còn sót lại,

Là những vật đã cho.

Kìa của cải giữ lại,

Đang hóa thành bụi tro.

Cả thế gian bốc cháy!

Tuổi già thanh củi mục,

Cái chết ngọn lửa hồng.

Bảo toàn nhanh của cải:

Hiến dâng bằng hai tay.

Vật cho là quả ngọt,

Giữ lại, mối lo buồn:

Nào vua quan dòm ngó, Nào kẻ trộm rình mò,

Hỏa hoạn, một đống tro. Kìa thân xác bỏ lại,

Nằm kia cùng của cải.

Hỡi những ai giác ngộ! Nắm lấy hạnh phúc này, Bằng hai tay để ngửa. Hân hoan đôi bàn tay, Dù chỉ là ít ỏi,

Một chút này hiến dâng. Con đường nào rộng mở, Cõi thiên nhân đón chờ”.

(Tương Ưng Bộ kinh, Samyutta Nikaya, I, 41)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/11/2017(Xem: 8084)
Mưa nhẹ trong đêm. Lắng tai thật kỹ mới nghe được tiếng rơi tí tách bên ngoài qua khung cửa kiếng đóng kín. Hàng cây cao rũ lá ướt trên các nhánh khô gầy đầu thu. Đèn đường lặng soi trên những vũng đọng. Côn trùng im tiếng. Không có tiếng đập cánh của chim đêm. Không có tiếng chân người dẫm xào xạc trên lá. Cũng không có tiếng động cơ nào của xe cộ trên đường. Hơi thở nhẹ như tơ trời. Nhẹ như hư không.
14/11/2017(Xem: 12090)
Dưới đây là bài phỏng vấn Giáo sư Trung Quốc Ji Zhe (汲 喆/Cấp Triết) về tình trạng Phật giáo ngày nay tại quê hương của ông. Bài phỏng vấn được đăng trên nhật báo "Le Monde" của Pháp ngày 9 tháng 9 vừa qua với tựa: "Đức Phật mặc áo màu đỏ" (Bouddha en habit rouge), và đồng thời cũng được đưa lên trang mạng của tờ báo này, nhưng lại mang tựa khác: "Tại Trung Quốc, chính quyền công cụ hóa Phật giáo đổi mới" (En Chine, le pouvoir instrumentalise le renouveau bouddhiste).
10/11/2017(Xem: 9056)
Trong các tổ chức, cộng đồng, quốc gia trên thế giới, nơi nào cũng có phép tắc luật lệ riêng mà thành viên thuộc các tổ chức đó hay người dân thuộc cộng đồng hay quốc gia đó bắt buộc phải tuân thủ. Mục đích của luật lệ là nhằm giữ cho cộng đồng có được trật tự, ngăn ngừa giảm thiểu những tai ương tội ác do kẻ xấu cố tình gây ra.
05/11/2017(Xem: 8183)
Hành Trình Về Con Đường Giáo Dục Của Phật Giáo, Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về. Trên từ những vị xuất gia, dưới đến vua, quan và thứ dân, ai ai cũng một lòng quy ngưỡng về giáo lý thậm thâm vi diệu ấy. Mục đích chính của việc tu tập là thoát ly khỏi cảnh giới khổ đau nầy, để trở về với bản lai diện mục thanh tịnh, giải thoát của mỗi người. Đức Phật cũng đã từng nói rằng: “Ta chỉ là một Đạo Sư”, nghĩa là một kẻ dẫn đường. Kẻ dẫn đường ấy chính là Thầy của chúng ta và bất cứ ai trong đời nầy dẫn được ta đi vào Đời hay vào Đạo đều là Thầy của chúng ta cả.
30/10/2017(Xem: 11864)
Giữa tháng 9 năm 2017, chúng tôi đi Paris, nước Pháp, để thăm gia đình và bạn bè, đã 10 năm chưa có dịp gặp lại. Thi và tôi đã để ra 3 ngày đi thăm vợ chồng người bạn của Thi khi còn học ở trường Trung học Gia Long - Saigon, vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Chị Hồng và anh Ngọc đang ở tại thành phố Oberhausen. Đây là thành phố nằm trong vùng kỹ nghệ sông Ruhr thuộc tiểu bang NordRhein- Westfalen, phía Tây-Bắc nước Đức.
30/10/2017(Xem: 10631)
Dưới đây là bài viết của Lạt-ma Denys tóm lược một số các bài thuyết giảng của chính tác giả tại ngôi chùa Tây Tạng Karma Ling, tọa lạc trong vùng núi Alpes trên đất Pháp. Bài viết nêu lên một sự hiểu biết mang một tầm quan trọng vô song trong Dharma/Đạo Pháp của Đức Phật, đó là khái niệm "Tương liên, tương tác và tương tạo" giữa tất cả mọi hiện tượng dù vô hình hay hữu hình, thuộc thế giới bên ngoài hay bên trong tâm thức một cá thể. Tiếng Pa-li gọi khái niệm này là Paticca-samuppada, tiếng Phạn là Pratitya-samutpada, tiền ngữ "pratitya" có nghĩa là "lệ thuộc vào" [một thứ gì khác], hậu ngữ "samutpada" có nghĩ là "hiện lên" hay "hình thành"..., Các ngôn ngữ Tây Phương gọi khái niệm này là: Interdependence, dependent origination, dependent arising, dependent co-production, conditioned co-production, conditioning co-production, v.v.; kinh sách Hán ngữ gọi là "Lý duyên khởi". Có thể tạm dịch sang tiếng Việt là "Nguyên lý tương liên, tương tác và tương tạo", tuy nhiên cũng có thể gọi vắn
27/10/2017(Xem: 10974)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ. Nhỏ như chuyện bất hoà khó chịu xảy ra liên tục với người xung quanh. Nhỏ như yêu thương người này ghét bỏ người kia một cách tự nhiên, hay người này cực khổ chăm sóc nuôi dưỡng người kia mà bị người kia càm ràm nặng nhẹ gây khó dễ hết chuyện này sang chuyện khác, hoặc chính bản thân mình đau ốm bệnh hoạn triền miên chạy chữa khắp nơi mà không dứt bệnh. Lớn như chuyện con cái trong nhà không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, ra ngoài xã hội quậy phá phạm luật chịu cảnh tù tội khiến kẻ làm cha làm mẹ chịu nhiều lo âu và đau khổ.
26/10/2017(Xem: 10255)
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo. Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông. Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngà
23/10/2017(Xem: 29947)
Tin vui: Tế bào ung thư bị tiêu diệt trong 42 ngày bằng ly nước ép đã thành công ngoài mong đợi, cả thế giới đang mở tiệc để ăn mừng, Rudolf Breuss đã dành cả cuộc đời để tìm cách chữa bệnh ung thư và cuối cùng vị nhân sĩ người Áo này đã thành công.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]