Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dư âm mùa An Cư kỳ 15 tại Tu Viện Quảng Đức

19/07/201410:36(Xem: 9743)
Dư âm mùa An Cư kỳ 15 tại Tu Viện Quảng Đức



Chu_Ton_Duc_Phat_Tu_Khoa_An_Cu_2014a







Niềm an lạc của mùa An cư tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, vẫn theo mãi mỗi hành giả sau khi mãn hạ, trên đường đi về, ngay cả hôm nay tại từng trú xứ và đã lan tỏa về đến Việt Nam, qua 5 Trường Hạ ( gần 500 vị) đang còn cấm túc, mà người viết đã chia sẻ cúng dường với số tiền nhận được tại Trường Hạ Quảng Đức. Người viết, đoan chắc niềm an lạc ấy sẽ còn lan tỏa và lợi ích nhiều hơn như vậy. Vì nếu là người con Phật chân chính sẽ TÙY HỶ trước tấm lòng rộng mở, với sự thỉnh mời thân thiết. Khi đến đạo tràng Quảng Đức, nhận được sự niềm nở, hân hoan với tình pháp lữ mặn nồng của nhị vị Thượng Tọa Viện Chủ và Trụ Trì Tu Viện. Rồi phòng ốc, ăn ở thì thôi quá ư là chu đáo, đầy đủ tiện nghi, tươm tất…Trong cách hành xử chân tình, tận tụy, chu đáo cho từng việc nhỏ, thấu hiểu để biết vận dụng, khai thác và xử dụng người cho từng phần việc, một cách hiệu quả, đấy là một trí tuệ với thời gian dài nhiều định lực, đáp ứng được tâm nguyện Tạo Già Lam để Tiếp Tăng Độ Chúng, cho nên ngôi Phạm Vũ mỗi ngày một huy hoàng phát triển và mùa An cư được thành tựu mỹ mãn.

Trong quá trình 10 ngày An cư kiết đông, hình ảnh 2 vị Trưởng Lão, lãnh đạo tối cao của Giáo Hội, gần 90 tuổi, quỳ lạy đối thú để tác pháp an cư, xả chế và cầm tay nhau dạo quanh trai đường, đã gây ấn tượng rất đẹp, đầy xúc cảm cho toàn hội chúng và nhất là cho những Tăng Ni trẻ. Đây là hình ảnh diệt trừ “ngã chấp” thể hiện BẢN THỂ TĂNG GIÀ thanh tịnh và hòa hợp, đúng với tinh thần “vô ngã” mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói: “Càng tu lâu chừng nào, càng thấy mình không là gì cả, đấy mới chính thật là tu” rất đáng cho hàng hậu học noi theo, làm hành trang cho quá trình tu tập và hành đạo.

Rồi các thời khóa công phu khuya, khai thị, hành thiền, tụng kinh, bái sám, quá đường, hội thảo…, mặc dầu thời tiết của Melbourne rất khắc nghiệt, cái lạnh với gió buốt, cũng không ngăn cản được sự tinh cần của các hành giả, nhất là chư Hòa Thượng Trưởng Lão vẫn hiện diện từng thời khóa, để sách tấn toàn đại chúng. Qua 10 buổi tụng Lương Hoàng Sám đã nhắc nhở cho toàn hội chúng, có cơ hội quán chiếu lại nội tâm để rồi tự sửa chữa những sai phạm, mà hoàn thiện tự thân. Từ đây mới thấy mình, còn lắm việc cần phải tu tập nhiều hơn nữa, “…tự thấy mình nhỏ thôi, việc tu còn kém cỏi…” để lo hạ cái “bản ngã” xuống mà tôn trọng mọi người, lo tu tạo công đức qua việc tranh thủ làm những việc mà nhiều người cao bản ngã lẫn tránh như chùi toilet, lượm rác, rửa chén, hút bụi, hầu trà, quỳ lạy để được học hỏi hay hoan hỷ chịu trận khi bị la rầy, quở mắng để luyện đức nhẫn nhục… Qua hành trì những việc nầy các hành giả đã trôi luyện được sự vững chải cho tự thân, hanh thông đẹp đẽ cho đạo tràng, công đức cũng từ đây hiển lộ, được mọi người yêu kính, mến mộ, quan tâm giúp đỡ, có thể được thỏa mãn những khởi niệm lành.

Qua các buổi hội thảo Tăng Ni, mặc dầu vẫn còn vài vị muốn thể hiện “bản ngã” qua việc thao túng diễn đàn, muốn chứng tỏ sở học, áp đảo hội chúng, nhưng nhờ oai lực của đại chúng, nhờ sự mạnh dạn, thể hiện tinh thần lục hòa, ảnh hưởng sự thoải mái của nền văn hóa bản xứ, tự do, nhân quyền được tôn trọng, nên cũng có rất nhiều vị tranh thủ nói lên được nỗi lòng, tâm tư, ý kiến của mình để chia sẻ cùng đại chúng. Những phát biểu cũng có được sự tác dụng tức thời, nhưng hy vọng ở sự lắng nghe, ghi nhận của chư Tôn Thiền Đức lãnh đạo, để SỰ THẬT được tôn trọng, để cảnh “phân biệt, đối xử, phũ phàng, bạc đãi, vùi dập, cô lập…” không còn gây xốn mắt, gây mất niềm tin, gây cơ hội cho các thế lực xấu khai thác. Mà quý Ngài phải thể hiện Từ Bi, Hỷ Xả với lòng bao dung, độ lượng, theo đúng tinh thần giới luật “Ẩn ác, dương thiện”, loại bỏ tánh tầm thường của thế gian: “Khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét trái bồ hòn cũng méo” hãy chịu khó đến với nhau LẮNG NGHE để HIỂU và THƯƠNG hầu Bản Thể Tăng Già vẫn luôn được gìn giữ và lợi ích cho muôn loài, được truyền lưu mãi mãi. Dư âm của các buổi hội thảo nầy sẽ là hành trang cho Tăng Ni trẻ và là những hồi chuông cảnh tỉnh cho những ai có trách nhiệm với tiền đồ đạo Pháp.

Khi nỗi niềm tâm sự khai thông, được nhiều người thông cảm sẻ chia và có sự quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ của chư Tôn Túc, đấy là niềm hạnh phúc vô biên của những “Chàng Cùng Tử” lúc nào cũng rất mong những “Ông Trưởng Giả” mở rộng tấm lòng để những đứa con lưu lạc có cơ hội quay về với gia tài Chánh Pháp. Xin đừng vùi dập như lối hành xử của HG: “ Khi có một người nào phạm tội, thì xô người ấy xuống hố và kêu mọi người xúm lại ném đá cho đến khi nào người tội chết mới thôi”. Một hành động thật tàn nhẫn và thiếu mất tình người. Với Đạo Phật là Đạo Từ Bi và Trí Tuệ, và Đức Phật ra đời cũng không ngoài mục đích: “Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến”. Là đệ tử Phật chúng ta phải tiếp theo hạnh nguyện của Ngài. Hãy ôm bình bát đến tận với từng chúng sanh để hóa duyên, chứ đừng ngồi ấm êm nơi văn phòng, với đầy đủ tiện nghi mà tự hãnh diện, cho là người có nhiều phước báu, để mọi người khi cần, phải đến để đảnh lễ cúng dường. Hãy là Bần Tăng, ‘ít muốn, biết đủ’ với ‘tam thường bất túc’, như vậy mới dễ gần gũi và có thể nhảy xuống bùn lầy để cứu vớt chúng sanh, nuôi dưỡng tánh Phật trong từng chúng sanh, mặc cho mình có bị mất mát gì đi nữa, cũng không chùn bước, đó là hạnh Bồ Tát mà Phật Giáo Đại Thừa đã thọ lãnh, hy hiến và thể hiện. Đấy mới xứng đáng là Trưởng Tử của Như Lai, xứng đáng là người lãnh đạo.

Hôm nay ngồi tại trụ xứ mà niềm an lạc của khóa An cư vẫn còn tuôn chảy, niềm Pháp hỷ vẫn mãi truyền lưu, đấy là nhờ tha lực của chư Phật, Bồ Tát, Liệt Tổ gia hộ, nhờ ở “Đức chúng như hải” nhờ ở sự nỗ lực tu tập của từng chư Tôn Đức và đặc biệt là nhờ ở tấm lòng bao dung của nhị vị TT Viện Chủ và Trụ Trì TVQĐ, Melbourne, không vọng tưởng, phân biệt đối đãi, đã dùng Bình Đẳng Tánh Trí mà cư xử với nhau, nên đã hâm nóng và làm sống lại được Bản Thể Tăng Già, thân thiết thỉnh mời được gần 100 chư Tôn Thiền Đức, không những ở toàn liên bang Úc Châu, Tân Tây Lan, mà còn thỉnh mời chư Tôn ở nước ngoài như Mỹ quốc và Việt Nam vẫn hân hoan vân tập. Lại thêm hơn 100 Phật Tử cũng được nhị vị TT sẵn lòng dung chứa và cung cấp đầy đủ tiện nghi để an tâm trong 10 ngày tòng hạ, tập tu cùng đại chúng.

Còn hạnh phúc nào hơn, khi nhìn thấy hình ảnh Tăng Già Hòa Hợp và Tứ Chúng Đồng Tu, đấy là những dư âm vang vọng mãi, từ hôm nay cho đến những kỳ an cư kế tiếp, hoặc là hơn thế nữa với một Tu Viện chung của Giáo Hội được hình thành, được sự điều hành thoải mái đúng với Tinh Thần Lục Hòa Của Tăng Đoàn thời Đức Phật, không bị áp đặt bởi biên kiến của một ai, để những vị muốn chuyên tu có nơi mà quy tụ về Tu Tập trong hằng ngày, hầu niềm tin vẫn còn mãi mãi và hạnh nguyện vị tha tu tập của từng vị, vẫn còn được thể hiện để cho tự thân được ý nghĩa. Có như vậy mới hy vọng bảo toàn và phát triển được Tăng đoàn, hoằng dương chánh Pháp, cũng như xây dựng được một cộng đồng Việt Nam vững mạnh với nhiều Đạo Đức Tốt Đẹp, tạo nơi chốn cho Đồng Bào mình về nương tựa, không còn phải chạy lung tung để cầu pháp học đạo khắp nơi nữa, hầu góp phần tô đẹp thêm hình ảnh của Úc Châu đã Nhân Đạo, Hạnh Phúc nhất thế giới càng thêm Văn Minh, Ổn Định và An Lạc hơn. Đấy là những đóng góp nhỏ nhoi so với sự bao dung, cưu mang của Chính phủ và người dân Úc, đã dành cho đồng bào ta trong quá trình gần 40 năm tỵ nạn và an cư lập nghiệp.

Rất mong từng vị trong mỗi chúng ta hãy luôn nhớ ơn và tìm cách đền ơn đáp nghĩa, mà trong tầm tay của chúng ta có thể làm được, đó là hãy lo hoàn thiện bản thân, bằng cách tu tập, nghĩ, nói và có những hành xử tốt về nhau, tương thân, tương kính, tương trợ lẫn nhau, giữ Tâm cho được Thanh Tịnh thì quốc độ sẽ Tịnh theo. Có được Chánh báo tốt, sẽ sống được trong Y báo tốt đẹp và “chiêu cảm” được nhiều điều như ý. Hãy lo tu tập miên mật, chư Phật, Long Thiên Hộ Pháp sẽ hộ trì “Thâm tín chư Phật giai sung mãn” chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng nơi Phật Pháp nhiệm mầu, để khỏi phải lo hướng ngoại tìm cầu, sẽ khổ và không biết bao giờ mới đạt được, vì Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã dạy: “ Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Mỗi người một tay cùng nhau bảo vệ môi sinh, tiết kiệm năng lượng, tôn trọng pháp luật, và biết chia sẻ cùng nhau những điều hay lẽ phải, những tâm tư vướng mắc…để mọi người cùng sống chung với nhau trong niềm an lạc, giải thoát.


Viết từ Adelaide, miền nam nước Úc, 17/07/2014

TK.Thích Viên Thành



Bia_Ky_Yeu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4995)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4256)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5122)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5339)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8130)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6259)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5704)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4337)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9283)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5817)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]