Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Gương mặt của cơn giận

28/03/201407:06(Xem: 10924)
Gương mặt của cơn giận
anger-face

Cơn giận có nhiều hình thức. Nó len lén nổi lên trong ta. Trước hết là sự mất kiên nhẫn, rồi thì nóng nảy, bực bội, giận dũ và cuối cùng là thù hận. Có cơn giận sôi sục, có cơn giận lành giá, có cơn giận làm bạn run lẩy bẩy, có cơn giận bùng lên như lửa cháy. Và có cơn giận chính mình – chúng ta gọi là tự căm ghét mình.


Tự căm ghét phải mất nhiều thời gian mới hình thành. Nó không phải nổi lên trong phút chốc. trước hết đó là sự không hài lòng. Thường thường no khởi đầu khi có ai đó gieo ý tưởng ấy vào trong đầu oc ta từ lúc tuổi còn nhò hoặc từ một ao ước không được thỏa nguyện – dù cho đó là loại ao ước nào, liên quan đến thú vui, tiền bạc hay một mục tiêu thiếu thực tế nào đó. Chúng ta cố gắng hết sức để đạt được mục tiêu hoặc thực hiện ước mơ. Có người nhận làm hai việc, ba việc, làm tất cả mọi chuyện. Họ làm việc nhiều hơn ngủ ít hơn, không để cho thể xac hay tâm trí nghỉ ngơi, tất cả chỉ vì một ước muốn tụ áp đặt cho mình . Chúng ta thường không chắc là nó đến từ đâu hay tại sao chúng ta theo đuổi nó.


Khi chúng ta làm việc hết sức mà không đạt được ước mơ thì chúng ta bắt đầu tự ghét mình. Chúng ta không thấy gì ngoài khuyết điểm. Chúng ta xem việc không đạt được mong muốn là một thất bại. Rồi tự bảo, “Đó là tôi, sự thất bại”. Sự bất mãn ngày càng mạnh, rồi cảm giác thất bại cũng ngày càng mạnh, và chúng ta thấy mình là “bất tài vô tướng”, chúng ta không thích xem mình là một sự thất bại cho nên lòng căm ghét mình ngày càng mạnh cho đến khi trở thành một cơn giận dữ. Cơn giận mạnh lên thành sự căm hận. Chúng ta bắt đầu tự làm hại mình.

Nếu bạn tự giận mình thì cơn giận có thể nổi lên thành một sự bất mãn cuộc đời nói chung. Rồi có người vịn vào lĩnh vực tâm linh để biện hộ cho cảm giác thất bại. Bạn tự nhủ mình rằng bạn không quan tâm đến sự thành đạt vật chât. Nhưng từ sâu trong lòng, cơn giận và sự tự căm ghét làm cho bạn tưởng mình giàu có về tâm linh mặcdầu bạn không phải là như vậy. Bạn nói rằng vật chất không quan trọng trong khi thực tế là bạn thất bại trong đời sống vật chất mà không muốn thừa nhân.

Thế nên bạn hành xử như thử mình không cần gì cả, bạn giả vờ hạnh phúc về mọi sự, và giả vờ đóng vai là một vị thánh. Đó cũng là một bộ mặt của sự giận dữ mà người ta không nhận thức được. Nó chỉ đưa mình vào bẫy của sự tiêu cực. nó sẽ cho bạn một lời biện hộ để rút ra khỏi cuộc đời, cung cấp cho bạn một tổ kén để ẩn mình vào trong thay vì đối mặt với vấn đề.

“Không sao” cũng là một kiểu lừa dối tương tự. Khi bạn nói chuyện với người nào đó và đề cậpđến một đề tài nhạy cảm, họ cố lẩn tránh nếu bạn đi quá sâu đến tim đen của họ. Họ đâm ra bối rối, họ không muốn cho thấy họ đang giận, hay họ không nhận thức được rằng họ đang giận, thế nên họ nói “không sao”, nhưng cố tránh nói chuyện về đề tài đó là một triệu chứng của sự giận dữ.

Angry-woman-on-phone--009
Một số người cố tỏ ra không giận: Họ giữ bộ mặt tỉnh bơ, có thể còn tỏ ra ân cần, tử tế, giấu giếm cảm giác thật sự của họ chừng nào có thể để cho người kia nghĩ rằng họ không muốn gây tổn thương cho người kia. Nhưng thật ra đó cũng là một dạng bạo động. Chẳng hạn khi bạn tự nhủ, “Mình không nổi nóng, mình đã giữ bình tĩnh, còn anh ta thì nổi cáu. Mình càng giữ bình tỉnh, anh ta càng tức tối”. Rồi họ lấy làm khoái trá ở chỗ người kia càng lúc càng tức. Đó là một trường hợp giận dữ, có điều là mang một bộ mặt khác.

Sự kìm nén có thể không giống gì với sự nổi giận, bởi vì bạn không thấy rõ ý muốn làm hại người khác, nhưng nó lại có hại cho người ta hơn vì họ đang dồn nén cơn giận. Khi bạn kìm chế cơn giận, bạn dồn nén và không bùng nổ, nhưng bạn đưa cơn giận vào trong. Bạn nuốt nó xuống hay là không. Bạn bắt đầu trút nổi bực bội lên người khác-một người bán hàng trong cửa hiệu, người thu ngân ở trạm xăng- thay vì người mà bạn giận dữ. Đôi khi sự dồn nén có thể mang hình thức một sự tự khẳng định mình. Bạn có thể nghĩ. “Được rồi, mình sẽ làm việc thật chăm chỉ, dạy anh ta một bài học, và trở thành người nổi tiếng nhất thế giới”. Đó cũng là giận . Nó là một dạng bề ngoài thì tích cực, nhưng từ góc độ nghiệp, thì không phải như thế.

Rất nhiều truyền thống khuyến khích sự kiềm chế, nhưng nó có thể tạo ra rắc rối. Nó chỉ có thể kéo dài thời gian, hoãn lại hành động xấu. Nhưng thật ra nó làm tăng thêm sự sân hận và hậu quả tạo ra lại còn xấu hơn. Nổi loạn thường là kết quả của sự dồn nén. Một phần của lý do chúng ta bị mắc kẹt vào việc tự ghét mình là do chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã làm một việc sai lầm, rằng chúng ta đã làm hỏng mọi chuyện vĩnh viễn. Nhưng không có gì là vĩnh viễn và không ai tệ đến nỗi không sửa chữa được. Không có người nào như vậy.

Người ta luôn miệng nói , “Ừ, mình dở quá, mình quá tệ, mình không ra làm sao, mình trẻ quá, mình quá già, mình cao quá, mình thấp quá, mình đen quá, mình trắng quá, mình như thế này quá, mình như thế nọ quá”. Chúng ta có nhiều lý do để tự hạ mình hay để cảm thấy mình là nạn nhân. Khi tôi còn là một đứa trẻ, tôi thường bị người giám hộ đánh đòn, rồi người phục vụ,rồi thầy giáo của tôi bởi vì đó là cách mà trẻ con, đặc biệt là các chú tiểu phải chịu để khép mình vào kỷ luật.

Điều đó không đúng đắn, nhưng là điều người ta vẫn làm. Tôi thường bị nhiều loại vết thâm tím, bầm dập. Thỉnh thoảng khi cỡi ngựa tôi phải đứng trên bàn đạp. Nếu tôi về nhà cha mẹ mà than vãn thì bạn có biết họ nói sao không? “thương cho roi cho vọt”. Lần cuối tôi bị đánh đòn là lúc tôi đã mười bảy tuổi. Nhưng tôi không bao giờ nghĩ rằng những người ấy đối xử tệ đôi với tôi, và bây gjờ tôi cũng không mang vết sẹo nào của thời ấy. Tôi cũng không nghĩ rằng tôi là một người xấu hay kém cỏi sau khi bị đánh đòn.


Đừng tự hạ thấp mình vì điều tệ hại đã xảy đến cho mình. Điều cần nhớ là cuộc đời Đức Phật cũng giống như cuộc đời mà tôi và bạn có hôm nay. Không có gì khác biệt về khả năng về cơ thể hay trí óc. Chỉ có nỗ lực mới làm nên sự khác biệt…Không ai không có lỗi lầm. mọi người đều có phần lỗi, và điều đó cũng bình thường thôi. Nếu như chúng ta không có sai lầm thì tất cả đều đã giác ngộ rồi. Nhưng thật ra thì chưa. Thế thì vấn đề giận dữ cũng là tự nhiên thôi. Chẳng có gì đáng xấu hổ.

Nếu như tôi nhấn mạnh việc cần phải thì không phải tôi muốn làm nhục các bạn. Không phải tôi nói rằng các bạn có giận chỉ để các bạn ý thức một chút, để buộc các bạn phải nhận lỗi về mình một chút. Cũng đâu có sao nếu thỉnh thoảng hãy chỉ ngón tay khiển trách về phía mình. Thay vì nhìn thấy lỗi người khác ở khắp mọi nơi, cũng nên hướng mắt nhìn vào trong và nhìn mình một chút.

Trích :Good life – Good death,Trần Ngọc Bảo dịch
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5419)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10429)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9235)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6535)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8929)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5102)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5294)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5730)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4602)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5185)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]