Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trở về với con đường hạnh phúc

19/03/201406:39(Xem: 9234)
Trở về với con đường hạnh phúc
minh_hoa_quang_duc (356)Trở về với con đường hạnh phúc
Viên Minh & Trần Minh Tài

Khổ đau hay phiền muộn của chúng ta do chính chúng ta tạo nên, chứ không phải là một tai ách gia truyền hay tội tổ tông từ thế giới bên kia trở về ám ảnh chúng ta, như một vài người quan niệm. Cũng không có thưởng phạt từ một đấng quyền uy tối thượng phán xử công và tội của ta. Chúng ta phải là quan tòa của chính mình.


Phải biết gánh chịu trách nhiệm của đời sống chúng ta và nhìn nhận những khuyết điểm của chính mình mà không qui trách hay nguyền rủa bất cứ kẻ nào khác. Đổ tội cho kẻ khác khi gặp phải những nghịch cảnh thì dễ nhưng chúng ta nào biết rằng chính khi hành động như thế chúng ta vô tình rước thêm phiền lụy và tạo cho mình nhiều thù nghịch hơn.

Như tiền nhân đã nói: Người tiểu nhân luôn luôn tìm cách chỉ trích kẻ khác, người trung nhân thì tự khiển trách mình và người đại nhân quân tử không tự trách mình cũng chẳng phiền trách tha nhân. Vì thế, muốn làm người quân tử chúng ta phải tự giải quyết những vấn đề riêng tư của mình mà không nên phiền trách kẻ khác. Hơn thế nữa, chúng ta phải sáng suốt, khi một người nào đó đã làm phiền lụy đến ta; hãy bắt chước thái độ của người hiền nhân quân tử, nghĩa là không oán trách, không nguyền rủa kẻ tạo ra làm lỗi, mà phải nhận thức rằng kẻ đó đã bị mê hoặc bởi tham lam, sân hận, si mê, nên mới hành động điên rồ, và tìm cách khuyên răn, cải thiện họ bằng lòng từ ái khoan dung. Được như vậy, một ngày kia kẻ làm lỗi sẽ ăn năn hối cải.

Phương pháp này đã được các bậc Thánh nhân từ cổ chí kim áp dụng và chứng tỏ rằng đó là phương pháp hữu hiệu nhất để thắng lướt mọi trở lực trên đường đời. Một điều đáng ghi nhớ là chính lòng khoan dung, đức kiên nhẫn và sự sáng suốt của ta có một từ lực khả dĩ quy hồi kẻ thù nghịch và làm cho họ nhận thức được làm lỗi của họ.

Trong kinh Pháp Cú Đức Phật dạy rằng:
"Chớ nên dòm ngó lỗi người, chớ nên dòm coi họ đã làm gì hay không làm gì. Chỉ nên nhìn lại chính mình thử đã làm được gì và chưa làm được gì." Vì ít có ai toàn chân toàn thiện trên thế giới này, bất cứ người nào cũng có thể phạm một lỗi lầm dù vô tình hay cố ý. Nếu quả thật nhân vô thập toàn thì liệu chúng ta đã là người hoàn toàn không có lầm lỗi chưa. Và như thế tại sao chúng ta không cố gắng sửa đổi làm lỗi của mình mà lại chỉ trích lỗi làm của kẻ khác? Nếu mọi người đều biết tự tu, tự xả, tự nhận lãnh trách nhiệm về mọi hành động của mình chứ không quy trách kẻ khác thì thế giới sẽ trở nên bình an, thái hòa; không còn loạn ly, tranh chấp, không còn đố kỵ, oán thù.

Nhưng, như Đức Phật đã dạy: "Nhìn lỗi người thì dễ, song quả thật là khó mà thấy được lỗi lầm của chính mình". Thế nên người ta thường phiền trách, phê phán kẻ khác hơn là tự phản tỉnh để kiểm soát chính mình, hành động như thế là trốn trách nhiệm. Tại sao chúng ta không can đảm nhìn nhận lỗi lầm và chịu trách nhiệm về những kết quả của lỗi làm đó.

Lắm khi chúng ta gặp phải một số người tìm cách lợi dụng lòng khoan dung và đức kiên nhẫn của ta và cũng lắm khi thái độ nhường nhịn của ta có thể bị xem là hèn nhát. Chúng ta không nên vì thế mà lấy làm khó chịu; vì nếu lương tâm chúng ta minh trực, thái độ chúng ta cũng chính đáng thì tất phải được các bậc thiện trí thức ca ngợi. Vả lại Đức Phật dạy rằng: "Không bao giờ có một kẻ hoàn toàn được khen hay hoàn toàn bị chê, dù trong quá khứ, hiện tại hay mãi mãi sau này." Ngài lại dạy rằng: "Như một ngọn thanh sơn kiên cố không bị gió lay, những lời tán dương hay phỉ báng không lay động được bậc đại trí."

Ngay trong đời sống của Đức Phật, lắm khi Ngài cũng bị chỉ trích, vu khống, phỉ báng. Phương pháp của Ngài là kiên nhẫn và trầm tĩnh. Ngài không cần đính chính, nhưng sự thật tự nhiên sáng tỏ nhờ đức độ siêu việt của Ngài.

Chúng ta chưa thể so sánh với bậc thánh nhân tuyệt thế như Ngài, nhưng nếu chúng ta sáng suốt, cũng có thể thắng lướt được hiểm nguy. Nếu có một kẻ nào đó vì si mê, tà kiến mà gây rối cho chúng ta, thì đó là cỏ hội để chúng ta trắc nghiện hay thể hiện lý trí sáng suốt, căn bản giáo dục, nền tảng đạo đức và tinh thần từ, bi, hỷ, xả của chúng ta. Trái lại, nếu ta cũng cư xử như kẻ điên rồ bằng cách tích lũy lòng oán hận, cố báo thù trả oán, thì hóa ra chúng ta tự hạ phẩm giá của mình xuống ngang hàng hay thấp kém hơn kẻ điên rồ ấy. Căn bản giáo dục và kiến thức đạo đức có ích gì khi ta không biết tùy cơ ứng dụng giống như người quân tử. Chính vì nhận thấy kẻ khác điên rồ, hung ác và tội lỗi mà ta không nên dẫm lên vết chân lầm lạc của họ.

Giữa chúng ta nhiều người có thiện tâm, không bao giờ làm hại kẻ khác, nhưng có khi họ vẫn bị chỉ trích và vẫn gặp ít nhiều khó khăn trên đường đời mặc dù họ luôn luôn giúp đỡ kẻ khác. Vì thế họ nghĩ rằng: Nếu ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ, thì tại sao ta làm lành mà lại gặp khó khăn và hành động từ thiện của ta vẫn bị người khác chỉ trích?

Đức Phật dạy rằng: "Khi thi ân ta không nên cầu được báo đáp". Hơn nữa, không phải kẻ thọ ơn nào cũng là hạng người biết ơn ân nhân của mình. Không gì cao đẹp bằng một người thi ân không mong được đền ân, đáp nghĩa.

Nếu làm được như vậy chúng ta trở thành bậc hiền nhân quân tử và chắc chắn chúng ta không bao giờ cảm thấy thất vọng khi bị vong ân bội nghĩa. Tuy vậy, trong một ngày nào đó, dù muốn dù không, chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái được kết quả cao quí do hành động phước thiện mà ta đã làm, đúng như lời cổ nhân đã nói: "thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo; nhược hoàn bất báo thời thân vị đáo", nghĩa là nhân lành thì quả lành, nhân ác thì quả dữ, sở dĩ chưa trổ quả là chưa đúng lúc đó thôi.

Mặt khác chúng ta phải suy nghĩ rằng, sở dĩ ngày nay ta làm lành mà bị chỉ trích hoặc gặp phải những điều bất hạnh là vì một vài nhân bất thiện nào đó mà ta đã tạo tác trước đây trong kiếp sống hiện tại hay quá khứ. Nhưng sau khi đã can đảm, bình tĩnh nhận lãnh trách nhiệm những hành động bất thiện quá khứ của mình, chúng ta đương nhiên không còn bị chi phối bởi phiền não chướng ấy nữa, nếu từ bây giờ ta không tạo thêm nhân bất thiện nào khác.

Nhờ suy nghĩ như thế chúng ta có thể dễ dàng vượt qua mọi trở ngại để tiếp tục con đường phước thiện. Đức Phật đã nêu một gương sáng cho thế nhân khi Ngài lấy ân báo oán. Ngài dạy: "Càng nhiều oan trái đến với ta, ta càng có nhiều cơ hội thực hiện từ tâm". Hơn nữa người hành động bất thiện chưa hẳn là người luôn luôn có bản tính độc ác, mà chỉ vì vô minh và vì họ tưởng lầm rằng phải hành động như thế để khỏi bị kẻ khác chê bai, hoặc để ngăn chặn không cho kẻ khác phá rối họ đến cùng. Thay vì trả thù họ, ta nên tìm cách cải thiện và giải thích cho họ biết rằng làm như thế là không hợp lý.

Chúng ta phải thương yêu họ như chính mình, vì một ngày kia họ sẽ nhận thức được hành động điên rồ của mình và bỏ dần những tập quán sai lầm. Như thế chúng ta cần phải để cho họ có cơ hội ly ác, hoàn thiện. Mọi người làm lỗi chỉ vì vô minh hay nhu nhược, nhưng chúng ta không nên có thành kiến là họ sẽ nhu nhược mãi mãi. Họ cần phải được các bậc đạo đức bao dung che chở. Chúng ta cần tìm mọi cách để cải thiện họ hơn là cô lập hay bỏ mặc họ. Có thể họ tái phạm làm lỗi cũ nhiều lần, nhưng chúng ta cần phải kiên nhẫn sửa đổi họ như một vị bác sĩ chữa trị bệnh nhân mang một căn bệnh dễ tái phát.

Nếu chúng ta có ý chí, biết kiểm soát tâm minh và tri túc, kẻ khác không thể quấy rầy hay đánh cắp hạnh phúc của ta được. Lòng bao dung và trí sáng suốt giúp chúng ta rất nhiều trong việc thoát ly ra khỏi những ràng buộc, những gánh nặng do phiền não gây nên, để sống một cuộc đời thanh tịnh tự tại.

Đức Phật dạy: "Hạnh phúc thay chúng ta sống không thù hận giữa những người thù hận, giữa những người thù hận chúng ta sống không thù hận. Hạnh phúc thay ta sống kiên cường giữa những người nhu nhược, giữa những người nhu nhược ta sống kiên cường". Trong thực tế của cuộc đời, không ai hoàn toàn thoát khỏi những lo âu phiền muộn, trừ khi chúng ta trở thành bậc toàn thiện. Tuy nhiên, nếu ta hiểu rõ được bản chất của cuộc sống, không phàn nàn, bất mãn mà can đảm nhận lãnh những kết quả của hành động mình thì đau khổ không những không còn làm cho chúng ta sa đọa, mà còn giúp chúng ta vượt lên đến Chân, Thiện, Mỹ.

Phiền não và khổ đau là phí tổn tất nhiên mà ta phải trả vì chúng đã chiếm hữu cái thân ngũ uẩn này. Chừng nào chúng ta không còn lệ thuộc vào khối danh sắc ấy nữa, chúng ta mới hoàn toàn thoát ly mọi phiền muộn khổ đau. Khi gặp nguy khó mà ta vẫn giữ được nụ cười trên gương mặt trầm tĩnh và sáng suốt, giải quyết vấn đề mà không tỏ ra một chút bối rối lo âu thì chính ta là hiền nhân quân tử.

Tóm lại, chúng ta phải nhận lãnh trách nhiệm cải thiện chính mình, phải can đảm nhìn nhận khổ đau của ta do chính ta tạo nên, chứ không qui trách cho kẻ khác. Không những thế, chúng ta còn tìm cách lấy đức độ của mình để qui phục kẻ khác trở về con đường chân chính, đó là sứ mạng tự giác giác tha vậy
Ý kiến bạn đọc
24/06/201923:44
Khách
"Viên Minh & Trần Minh Tài"???
Các bậc cao tăng thường ít khi viết chung với người khác.
Không rõ Trần Minh Tài là ai ???
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/05/2021(Xem: 6546)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5946)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12949)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5759)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5530)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5743)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4786)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4789)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 5018)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4882)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]