Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư và Bậc Vương Giả

18/03/201407:54(Xem: 7782)
Thiền Sư và Bậc Vương Giả
Thien_Su_2
THIỀN SƯ VÀ BẬC VƯƠNG GIẢ


Minh Đức Triều Tâm Ảnh



Đức vua Milinda quyền uy hiển hách, vang bóng một thời, khi đối thoại với tỳ-khưu Nāgaseṇa, nhà vua đã tự tướt bỏ cái lốt “vương giả” để xin được hầu chuyện như một bậc “trí giả”.

Ở Việt Nam ta vào thời Lý-Trần, các nhà vua đến thăm các vị thiền sư thường lấy tư cách của một người đệ tử, lại còn tâm đắc hơn là, trong lúc đàm thoại, các vị thiền sư của ta thường gửi gắm “thiền ý” rất văn hoa và thi vị. Và nếu đức vua là bậc căn cơ thượng trí, có khả năng vén lớp sương mù ngôn ngữ khái niệm, ông ta sẽ “tao ngộ” được cái “chân diện mục” của mình đã từ ngàn xưa lưu lạc. Bây giờ, chúng ta hãy “trước đèn lần giở cảo thơm”, đọc lại cuộc đàm đạo giữa Thiền sư Thiền Lão và vua Lý Thái Tông thử xem.

Vào khoảng niên hiệu Thống Thụy (1034-1038), vua Lý Thái Tông nghe danh Thiền Lão là bậc cao tăng đắc đạo, môn sinh theo học hàng ngàn, bèn xa giá lên núi Thiên Phúc, Tiên Du bái yết. Sau khi được diện kiến, vua thấy vị sư già có dung mạo, cốt cách như tòng như hạc, tuyết sương đã cỗi, lễ độ cung tay thưa rằng:
- Lão thiền sư ở núi này bao lâu rồi?

Khẽ đưa mắt ngước nhìn bậc vương giả: Oai nghi đường bệ, nhưng khí sắc trầm hùng, bình hòa. Sư bèn thử“sự thâm chứng thiền học” của nhà vua, nên đáp:

“Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu”
(Chỉ biết tháng ngày này
Xuân thu thuở trước ai hay làm gì!)

Nhà vua ngơ ngác. Ông sư già này lẩm cẩm rồi, hỏi một đường, đáp một nẻo. Nhưng dẫu sao, bậc vương giả vốn hay thơ, nghe thiền sư đọc thơ thì cảm thấy thú vị, chẳng chấp gì, hỏi tiếp:
- Vậy thì hằng ngày, Lão thiền sư làm việc gì?

Thiền sư nhìn vua, rồi nhìn hoa cảnh viên môn, tủm tỉm cười, bắt đầu hai tứ thơ xuất hiện, dường như chưa đi qua sự khúc xạ của trí năng:

“Thúy trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân, minh nguyệt hiện toàn chân”
(Trúc biếc, hoa vàng-không ngoại cảnh
Trăng trong, mây trắng-hiện toàn chân).

Thật tiếc cho tâm huyết của vị thiền sư già. Bậc vương giả kia đã không hiểu, không thấy “thiền sư có ý chỉ gì”, hỏi, thì Thiền Lão không muốn nhiều lời. Và, thiền sư không muốn nhiều lời là đúng. Nhiều lời là nhiều ý, nhiều ý là chất chồng khái niệm, là “đầu thượng trước đầu”, là “tuyết thượng gia sương”!

Kẻ đạt ngộ, bất cứ dòng phái nào, quốc độ nào, màu da chủng tộc nào, luôn sống trong giây khắc hiện tại. Chỉ có hiện tại là “thực”. Chỉ có cái hiện tại: “Ở đây và bây giờ”- đang chảy trôi, đang dịch hóa mới chính là cái “pháp hiện tiền” cho ta “hiện quán” để thâm ngộ duyên sinh, vô ngã tính:

"Đản tri kim nhật nguyệt. Thùy thức cựu xuân thu".
“Chỉ biết tháng ngày này, giây khắc này”. Không truy tầm quá khứ, không vọng móng tương lai, xuân thu thuở trước ai hay làm gì! Còn gì rõ hơn thế nữa? Tuy đã quá rõ nhưng bậc vương giả của chúng ta vẫn cứ loay hoay, lăng xăng, muốn hỏi hằng ngày thiền sư làm việc gì! Sao phải làm việc gì! Có “cái gì” nữa sao? Cứ sống trong giây khắc hiện tiền thì “làm gì” hay “không làm gì” đều là đạo cả, đều sống trong thiền, thở trong thiền, đi đứng trong thiền cả...

"Thúy trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân, minh nguyệt hiện toàn chân".

Hoa vàng kia, trúc biếc kia đâu phải là cái ở bên ngoài tâm. Thực tại, “yếu tính của thực tại” không ở trong, không ở ngoài, chẳng có chủ thể, chẳng có khách thể. Trăng trong kia, mây trắng kia... tất cả chúng đều hiện ra như chân, như thực, đại mỹ, châu toàn... Kẻ mê thì tầm cầu Đông Tây Nam Bắc, những cảnh giới phi thực; kẻ đạt ngộ họ sống với các pháp đang là, với mọi hiện hữu tương quan muôn đời như thị...

Một thời, thiền sư và bậc vương giả của chúng ta là thế ấy. Tuy ta không có được nhiều thông tin do sử liệu ít ỏi, nhưng chỉ cần một vài câu, một vài đoạn, ta có thể hình dung ra diện mạo văn học của một thời. Hãy thử tưởng tượng một ngàn đệ tử vây quanh, những cuộc đối thoại, nhàn đàm giữa thầy và trò, của người hỏi đạo, học đạo... đều hàm chứa văn, triết, thiền học. Chúng không chỉ cho ta thấy trình độ tri thức, kiến thức của họ mà còn toát lên nội lực tâm linh từ dòng thiền uyên áo; biết tiếp thu, chọn lọc, sáng tạo; biết giữ gìn và phát huy, tạo nên một bản sắc đặc trưng của Phật giáo Việt Nam ngay từ thời mới tự chủ, độc lập...Ôi! Cao đẹp thay!

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2020(Xem: 5512)
Afroza Khan Mita, giám đốc khu vực của Cục Khảo cổ học khu vực Khulna (DoA) cho biết, bố cục phế tích quần thể này bao gồm hai ngôi già lam tự viện Phật giáo và sân liền kề, với tổng cộng 18 phòng phức hợp bên trong, có thể là khu Tăng xá dành cho chư tôn đức tăng cư ngụ thời đó.
25/03/2020(Xem: 14363)
Trong thời Phật, khi dịch bệnh xảy ra, có một gia chủ trình thưa Đức Phật vì sao ngày nay làng mạc xơ xác, hạn hán, dịch bệnh, nhiều người mạng chung,... Đức Phật đã trả lời: "Này Bà-la-môn, ngày nay, các loài người bị tham ái phi pháp làm cho say đắm, và bị ác tham chinh phục, bị các tà kiến chi phối. Vì bị tham ái phi pháp làm cho say đắm, vì bị ác tham chinh phục, vì bị tà kiến chi phối, trời không mưa xuống đều đặn. Vì vậy, bữa ăn khó tìm, mùa màng hư mất, trắng xóa với côn trùng, chỉ còn lại cọng dẹp. Do vậy, nhiều người mạng chung. Đây là nhân, này Bà-la-môn, đây là duyên, vì sao ngày nay loài người bị tiêu diệt, bị giảm thiểu trông rõ như thế, các làng trở thành không phải làng, các thị trấn trở thành không phải thị trấn, các thành phố trở thành không phải thành phố, các quốc độ trở thành không phải quốc độ."
25/03/2020(Xem: 7523)
Vào năm 325 trước Công nguyên, Quốc vương của Macedonia, Alexandros Đại đế (Tại vị 336 - 323 TCN) đã chinh phục Đế chế Ba Tư, bao gồm cả Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến xa tận Punjab thuộc Ấn Độ ngày nay, và thông tin về Phật giáo đã đến với phương Tây từ đó. Nhưng sự việc đã diễn ra trực tiếp giữa Phật giáo và triết học phương Tây và tư tưởng tôn giáo chủ yếu là ở Vương quốc Ashoka Maurya (274-236 TCN).
24/03/2020(Xem: 4816)
Ni sư Thích nữ Đại An (Dae An - 大安) Sinh năm Canh Tý (1960) tại Jeonju, và tu học tại một cái Am nhỏ tên là Gukil-am trong khu vực Tổ đình Hải Ấn (Haeinsa) và tốt nghiệp từ trường đại học Phật giáo Bongryeong. Hinh 1: Ni sư Thích nữ Đại An (Dae An Sunim) thể hiện các món ăn truyền thống của Hàn Quốc trong một bữa ăn theo chủ đề “Hoa Sen”, bao gồm cơm lá sen, bánh củ sen và salad với nước sốt hạt thông.
24/03/2020(Xem: 5522)
Ngày 10/08/2015, Cục Di sản Văn hóa Hàn Quốc (Cục Văn vật) cho biết: “Quốc Bảo số 32 “Cao ly Đại Tạng kinh” Haeinsa (Hải Ấn Tự), còn được gọi là “Bát vạn Đại Tạng kinh” bởi số lượng bảng so với năm 1915 thì số lượng thống kê 81.258 tấm, hơn 94 bảng, tổng cộng là 81.352 bảng.
24/03/2020(Xem: 6143)
Theo báo cáo của một nhóm nhà Khảo cổ, cùng với sự hỗ trợ của Cục Chính trị và Quân đội Pakistan đã phát hiện tại tỉnh Khyber Pakhtunkhwa, Pakistan, có đến khoảng 110 địa điểm di tích có liên quan đến Phật giáo thời cổ đại. Khoảng 30.000 nghệ thuật chạm khắc cổ xưa và chữ khắc có thể biến mất mãi mãi do việc xây dựng đập Diamer-Basha.
24/03/2020(Xem: 8995)
Cho đến hôm nay, đã hơn một ngày tuần sơ thất của cố ca sĩ Thái Thanh ( 1934 – 2020 ). Bà tên thật là Phạm Thị Băng Thanh( Để gần gũihơn xin phép được gọi bằng Bà), sinh ngày 5/8/1934, từ trần ngày 17/3/2020 tại Quận Cam, California, Hoa kỳ, hưởng thọ 86 tuổi. Tiếc rằng trong cáo phó của gia đình không có thông tin ngày giờ tẩn liệm và nơi an táng hoặc hỏa táng. Dù biết rằng bà ra đi giữa cơn đại dịch Covid 19, gia đình cũng tùy thuận miễn phúng viếng, nhưng những chi tiết đó giúp cho những người ái mộ phương xa có đủ thông tin để tưởng niệm và nhất tâm cầu nguyện cùng gia đình. Bài viết này cũng cố trông đợi cho đến ngày sơ thất hôm nay ( nếu gia đình có tổ chức cúng theo nghi thức PG ) mới có thể nói lên một vài cảm nhận về tiếng hát của bà, đặc biệt có ít nhiều liên quan đến Phật giáo chúng ta.
22/03/2020(Xem: 6769)
Kiểm soát cảm xúc là cách chúng ta xử lý những trãi nghiệm cảm xúc qua từng giây, từng phút để có cuộc sống khỏe mạnh, xây dựng các mối quan hệ tích cực và đạt được mục tiêu mong muốn. Khi chúng ta cảm thấy thất vọng hay vui tươi, lo lắng hoặc thích thú, chúng ta làm gì để kéo dài hoặc thu ngắn những cảm xúc này? Chúng ta làm gì để giữ lại những cảm xúc này hay chuyển đến một cảm xúc khác? Quan trọng là, từ góc nhìn của trí thông minh cảm xúc (emotional intelligence), việc kiểm soát cảm giác liên quan đến việc chấp nhận rằng cảm giác đó đến và sẽ đi một cách tự nhiên, mà hầu như tất cả các cảm xúc đều như vậy. Vì thế chúng ta sẽ không cố níu giữ, phản ứng hoặc bị cuốn vào những cảm xúc đó.
21/03/2020(Xem: 5780)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính gửi chư Tôn Đức và quý vị hảo tâm Từ thiện. Được sự thương tưởng và hỗ trợ của quí vị chúng tôi vừa thực hiện xong 14 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận khu vực Bồ Đề Đạo Tràng & Nalanda tiểu bang Bihar India. Đây là Public Well Hand-pump nên cả làng có thể xài chung, người dân nghèo bớt đi rất nhiều nỗi nhọc nhằn trong mùa hạ vì phải đi lấy nước ngoài sông xa. Kính mời quí vị xem qua một số hình ảnh tường trình.
21/03/2020(Xem: 5826)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm . Thêm lần nữa, được sự thương tưởng của quý chư Tôn đức, Phật tử thiện hữu, tuần lễ vừa qua (15/3 2020) chúng tôi lại có dịp lên đường gieo hạt Từ tâm. Dẫu biết rằng việc làm của chúng ta cũng chỉ là việc ''lấy muối bỏ bể'' trong nỗi nghèo khó mênh mông của xứ này, nhưng thiết nghĩ điều đó không quan trọng, quan trọng là Tấm lòng san sẻ mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]