Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Phật tử Myanmar

15/03/201416:29(Xem: 6706)
04. Phật tử Myanmar

Phat_tu_Myanmar (2)
Phật tử Myanmar

Như chúng ta đã biết có đến 90% dân số Myanmar là Phật tử. Đạo Phật với chùa chiền, kinh sách, tu sỹ len lỏi đến từng làng mạc, thị trấn.

Dân Myanmar rất sùng đạo Phật. Tại bất cứ nơi đâu, thị xã hay vùng quê đều có ít nhất một ngôi chùa và một tu viện Phật giáo. Chùa Myanmar luôn rất đẹp và thường được dát vàng nên trông rất nguy nga, tráng lệ và ấn tượng.

Theo các thông tin chính thức, 99% Phật tử là người Miến, người Shan và người Karen. Phật giáo Myanmar gốc trước đây là Đại thừa nhưng sau này chuyển thành phật giáo Nguyên thủy hay Theravada.

Điểm khác biệt lớn nhất so với Việt Nam ở chỗ các quý tăng không ở chùa. Chùa chỉ là nơi thờ Phật và dành cho Phật tử. Quý sư ở các tu viện. Điều này cũng được hiểu rằng chùa được quản lý bởi cư sỹ.

Ở Myanmar người dân còn rất nghèo. Chuyện bạn gặp các ngôi nhà làm bằng cót, bằng lá là thường tình. Thu nhập của người dân nơi đây còn khá thấp. Bạn tôi cho biết người thường thu nhập 2 -3 đô la một ngày. Ấy vậy nhưng hầu như tiền họ kiếm được bao nhiêu là gom góp để xây chùa, tạc tượng, đúc chuông. Chính vì vậy mà chùa nhiều lắm. Riêng ở Bagan, với một vùng đất trên dưới 40 km2 mà có đến trên 4.000 đền, chùa, tháp lớn nhỏ. Có đến Bagan mới biết, từ thời xa xưa Phật tử Myanmar đã rất mến mộ đạo Phật. Họ hết mình làm tất cả những gì có thể để hoằng pháp, để hộ pháp, để Phật Pháp trường tồn. Có đến ngắm những ngôi chùa cách đây hàng thế kỷ mới hiểu phần nào về Phật tử Myanmar.
Phat_tu_Myanmar (5)Phat_tu_Myanmar (4)

Anh bạn tôi người Myanmar cho biết, người dân nước anh hầu như không còn tham nữa. Do không có tham nên lúc nào họ cũng vui vẻ và bình an. Tôi chứng kiến rất nhiều gia đình đưa nhau vào chùa. Họ thật sự hạnh phúc bên nhau. Tôi nhìn thấy khắp nơi dán các tấm biển giới thiệu ngày, giờ và địa điểm giảng pháp của các vị sư khác nhau. Và các Phật tử nơi đây thường xuyên đi nghe pháp.

Các Phật tử Myanmar rất mộ đạo. Họ không chỉ tích cực xây dựng chùa và làm những gì liên quan đến tượng Phật và chùa, không chỉ thường xuyên nghe pháp mà họ rất hay mua những tờ giấy có vàng và tự mình đắp lên tượng Phật. Nhờ đó mà các bức tượng Phật ngày càng có lớp vàng dày hơn.

Cờ Phật giáo được các Phật tử Myanmar treo khắp nơi. Ở Việt Nam ta hình như rất khó làm được như vậy vì phải xin phép rất phiền phức. Tôi còn nghe nói rằng, ở ta, thường chỉ được treo quanh và trong chùa. Ở Myanmar thì khác. Cờ bay khắp nơi. Và như vậy tính Phật lại càng ngấm sâu vào từng tế bào của mỗi người dân của bao thế hệ.

Chúng tôi ở một số khách sạn và nhiều buổi chiều có nghe thấy loa tụng kinh. Hay thật. Giọng tụng trực tiếp chứ không phải ghi âm sẵn (vì vẫn nghe thấy tiếng ho, tiếng ngừng….). Vì tụng bằng tiếng Pali nên tôi không hiểu nhưng nghe giai điệu thấy rất thích. Khi ngồi nghe tôi tưởng tượng ra các loa truyền thanh phường xã của Việt Nam ta thay vì phát những tin không ai muốn nghe mà mở kinh Phật cho dân nghe thì hay biết nhường nào. Nếu làm được như vậy, Phât giáo mới đi sâu vào từng người con đất Việt và thiện lành mới có cơ hội tăng trưởng.
Phat_tu_Myanmar (6)

Tự nhiên tôi nhớ đến xe bán bánh tráng “ông già” ở Sà Gòn. Ông bà là bố đẻ của em Truyền, học trò của tôi. Vừa bán bánh tráng, họ thường xuyên mở các bài kinh, bìa giảng của quý thầy cho người mua hàng và khách quanh đó cùng nghe. Tiếc thay đây vẫn là cá biệt, là số ít.

Đi đến các chùa ở Myanmar chúng tôi thấy Phật tử địa phương mua hoa, trái cây lễ Phật. Tuy nhiên họ bày rất ngăn nắp với số lượng vừa phải. Hai thứ hay được dâng cúng Phật nhất là chuối và dừa. Có lẽ bởi thông dụng nhất. Chúng tôi chưa hề thấy ở đâu Phật tử cúng đồ mặn. Chỉ 100% là hoa và trái cây. Thật là thanh tịnh và sạch sẽ, thơm tho.
Phat_tu_Myanmar (3)

Phật tử Myanmar rất thành tâm và tính tín ngưỡng cũng cao. Chùa nào cũng có chỗ linh thiêng. Cũng thấy giới thiệu chùa nọ thiêng, Phật kia phù hộ độ trì. Và quan sát tôi thấy các Phật tử rất thành kính và rất thường xuyên lễ Phật, ngồi thiền hay tụng kinh.

Cũng nói luôn rằng ở đất nước này không hề có hiện tượng mặc áo ngắn tay, áo hở nách, quần cộc vào chùa. Các Phật tử cũng tự nguyên tháo dày dép để tỏ lòng tôn kính đến Đức Phật và ngôi chùa. Chuyện này xảy ra bất kể ngày đêm và ở bất cứ ngôi chùa hay ngôi tháp nào. Có hôm, 3 giờ sáng chúng tôi trèo lên một ngôi tháp rất cao ở Bagan. Trời rất lạnh, vậy mà các Phật tử địa phương vẫn nhiệt tình soi đèn pin cho chúng tôi leo và nhắc tháo dày dép. Chao ôi, sao mà họ tốt và thành kính đến vậy.

Myanmar là đất nước của Phật giáo nguyên thủy nên không có các vị ni, tức quý cô. Nữ giới không được xuất gia. Và ở đất nước này có đến hơn môt nửa triệu tăng. Quý thầy là lực lượng quan trọng cho hoằng pháp và hướng dẫn các Phật tử tu tập.

Quãng thời gian ở Myanmar tôi thật sự quý kính những bạn đồng tu nơi đây. Một số thành viên trong đoàn còn không muốn về. 13 ngày trôi đi quá nhanh để rồi chúng tôi muốn quay lại đây lắm.

Khi tôi gõ những dòng này thì nhà hàng xóm đang tụng kinh. Tôi dừng máy ngồi nghe. Không biết cả khu chung cư tôi đang ở có bao nhiêu phần trăm nhận mình là Phật tử và trong đó có bao nhiêu phần trăm là tu thật. Tôi nhớ đến những nụ cười của các Phật tử Myanmar, đến câu nói của anh bạn “Ở nước tôi hầu như không có ai còn tham nữa”. Vậy thì các Phật tử Myanmar không tham, không sân và dĩ nhiên là không si. Họ đang gần Phật rồi. Phật bên cạnh họ thật rồi.

Vậy thì còn tôi thì sao? Còn bạn thì sao?

TS Nguyễn Mạnh Hùng – Công ty sách Thái Hà

Mời đón đọc các bài tiếp theo:

5, Tu Pht như ở Myanmar

6, Bình an như Myanmar

7, Tượng Phật ở Myanmar

8, Kinh sách và đọc như ở Myanmar

9, Bí mật Myanmar

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/05/2021(Xem: 6543)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5944)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12944)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5755)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5525)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5742)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4783)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4783)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 5012)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4876)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]