Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khoảng lặng trong tâm hồn

14/03/201407:20(Xem: 11420)
Khoảng lặng trong tâm hồn
minh_hoa_quang_duc (372)
Khoảng lặng trong tâm hồn
Đỗ Hồng Ngọc

Nói không được
Đọc Kim Dung, thấy có một nhân vật Hoà thượng tên là "Nói Không Được" rất thú vị. Thú vị không vì tính cách của ông mà vì cái tên của ông. Thật ra, trong nguyên bản gọi là Hoà thượng Bất Khả Thuyết. "Bất Khả Thuyết" hay "Nói Không Được" ta đã gặp nhiều khi học Phật, không chỉ là Bất khả thuyết mà còn Bất khả tư nghì, Bất khả đắc, Bất khả thủ, Bất khả... 
Đã biết là "bất khả" mà vẫn cứ tò mò truy tìm mọi ngóc ngách, đó là cái nghiệp của chúng sinh, nhất là người làm khoa học, không dễ tin nếu chưa được "chứng minh". Điều này quả thật hợp ý Phật. Phật đã chẳng luôn nhắc nhở ta đừng vội tin, phải thể nghiệm đi cái đã, phải trực tiếp lấy thân tâm mình làm cái "labo" để mà quan sát ngắm nghía cho thật thấu đáo đó ư? Phật đã chẳng luôn nhắc nhở ta phải tinh cần, tinh tấn, phải thực hành, không được lơ là, chểnh mảng đó ư? Thú vị là, khi còn có thể "thuyết" được thì chỉ mới tới được cái vỏ ngoài, còn tới được chỗ thâm sâu, cốt lõi bên trong hẳn là phải im lặng, phải ú ớ, phải hỏi một đằng trả lời một nẻo, hoặc tốt hơn cả là phải "tu rị, tu rị...", nghĩa là "im lặng, im lặng....". Tóm lại là nói không được, là bất khả thuyết!

Khi Phật phát hiện ra con đường dẫn đến an vui, hạnh phúc, chính Ngài cũng ngại ngùng không muốn tiết lộ, không muốn bày tỏ vì con đường quả thật là tuyệt diệu nhưng lạ lùng quá, ngược đời quá khó có ai tin, có khi còn gây phản ứng ngược. Mãi sau Ngài mới chịu nói ra, và dĩ nhiên rất đắn đo, nói từng phần, với mỗi người một cách khác nhau, tuỳ đối tượng. Sau này thường khi chứng ngộ rồi, các thiền sư mới chịu chọn một vài học trò để truyền đạt, mà cũng ít chịu truyền, vì truyền không dễ, bởi nhiều điều "nói không được". Học trò phải quan sát trực tiếp ở thầy và phải thực hành miên mật. Có học trò uyên thâm mà không tới đâu cả, loay hoay không thoát; có học trò giã gạo, nấu cơm, không biết chữ mà đại ngộ. Học giả trí thức, có bằng cấp cao cũng chẳng đến đâu, còn người hàng thịt, một hôm buông dao thành Phật. Cho nên tin không dễ.

Trong kinh Kim Cang, Phật và Tu Bồ Đề, hai thầy trò đối đáp như kiểu "role play", sắm vai để giảng dạy thật hấp dẫn - trước đó, Phật đã lặng lẽ "demonstration" (trình diễn) một màn rất ấn tượng là bưng bình bát đi khất thực trong thành Xá Vệ nhưng không phải ai trong hội chúng cũng nhìn ra. Có lúc, hình như người học trò Tu Bồ Đề giả bộ hoang mang, không tin người đời sau có thể hiểu nổi và thực hành được những lời Phật dạy thì Phật quở: "Chớ nói vậy! Ông chớ nói vậy?". Người đời sau còn "thông minh" hơn, còn nhiều điều kiện hơn, dĩ nhiên là còn nhiều khổ đau hơn để mà hiểu Phật. 
Lạ lùng là nhiều người trẻ ngày nay hiểu Phật rất nhanh - không phải là cái tin dị đoan mê tín đâu, mà tin một cách khoa học - như là một phương thuốc chữa bệnh tâm thần cho thời đại, giúp cho con người không dấn mình thêm vào những nỗi khổ đau, ưu phiền, sợ hãi; giúp con người hạnh phúc hơn; tạo một môi trường xã hội tốt đẹp hơn và môi trường thiên nhiên an lành hơn. Những người trẻ thậm chí mới đôi mươi, đặc biệt ở phương Tây ngày nay có vẻ hiểu Phật, thấm Phật và hành Phật hơn cả ở phương Đông.

Nỗi khổ đau của kiếp người thật vô vàn, và dĩ nhiên hạnh phúc cũng vô vàn không kém, thậm chí cái chuyện được làm người trên cõi đời này cũng đã là chuyện hy hữu, thế mà lạ thay, chúng ta chỉ thấy những khổ đau, chỉ nguyền rủa cuộc đời, cay đắng với bản thân mình, và có vẻ như rất khoái gặm nhấm những nỗi khổ đau kia, mà quên đi, lờ đi những niềm hạnh phúc: “Rồi bị thương người ta giữ gươm đao/Không muốn chữa không chịu lành thú độc” (Xuân Diệu). Cái "thú độc" đó có khi còn được gọi là "thú đau thương", được con người ca tụng, nâng niu, vun vén, hưởng thụ...đã bao đời!

Cứ hỏi một người đi, hỏi anh ta có hạnh phúc không, anh ta sẽ sung sướng kể cho nghe triền miên những điều bất hạnh. Còn nếu hỏi anh ta những điều bất hạnh, anh ta sẽ sung sướng kể cho nghe biết bao nỗi khổ đau. Con người sống trong cái khổ như vậy, loay hoay với cái khổ như vậy, thoát ra không dễ. Một số không nhiều "ngộ" được cái khổ đau kia chính là mầm mống của hạnh phúc phiền não kia là "nguồn lực" của Bồ đề. Cho nên, có người tìm được con đường, vạch ra con đường, chỉ ra con đường, làm sao không cảm kích. Mà thú vị, con đường đó không ở đâu xa, có sẵn đó rồi ở trong ta thôi.

Cho nên, người chỉ đường nói, chả có pháp gì đâu mà bày vẽ chả có cái gì giành được, lấy được, chiếm được để mà khoe khoang. Con người đó mới thật dễ thương làm sao. Con người đó bỏ vương quyền, bỏ nhà bỏ cửa lên rừng, lội suối trèo đèo, nhịn đói nhịn khát, có lúc chỉ còn xương bọc da, sờ bụng thì đụng xương sống, có lúc sống trong nghĩa địa, để bọn trẻ chăn trâu nhổ vào mặt (…), rồi ngộ ra một điều thú vị, sảng khoái, thấy con người đáng sống, đáng hạnh phúc. Con người đó đã biết từ bỏ, dám buông bỏ, đã kiên trì, đã kham nhẫn, đã thiền định, đã vượt thoát bằng con đường trì tuệ, và điều quan trọng là không giữ cho riêng mình mà chia sẻ cho tất cả chúng ta, chẳng đáng quý ư? Thậm chí, có lúc không thể nói lên được bằng lời thì Ngài đưa lên một cành hoa và im lặng. Cái sự trao truyền trong im lặng này mới thật là tuyệt diệu, nó làm cho ta được tự do khám phá. Khám phá không ra thì ta…ú ớ, khám phá ra rồi thì ta càng ú ớ, càng nói không được.

Con đường an tịnh
Trong đời sống thường ngày, chúng ta cũng có thể có những chút "giác ngộ": đời là vô thường, là bóng câu qua cửa sổ, là bọt bèo, là giấc mộng! Nhưng ta chỉ giật mình “ngộ" một chút rồi quên, rồi "trôi lăn" theo những tham sân si, những quấn quít chằng chịt vô cùng hấp dẫn không sao thoát nổi kia! Ngay những triết gia quay quắt tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời, sự hiện hữu của kiếp người cũng vẫn loay hoay với bao triết thuyết rồi đâu vào đó. Phải có một con đường khác. Phật khẳng định có con đường khác đó: "Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí…”. Đó chính là con đường hạnh phúc trải nghiệm của đức Phật, với nụ cười tự tại trên môi, nhất quán, xuyên suốt 45 năm tận tụy sẻ chia cho mọi người từ ngày thành đạo. 
Đó là con đường thực nghiệm, thể nghiệm, không lý thuyết suông, không hý luận, được kiểm chứng và có tính phổ quát. Những lời dạy cuối cùng của Phật cùng các đệ tử cũng đã không quên nhắc lại "con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh..." này, bởi sợ rằng sau này người ta lại dễ rơi vào tranh luận, hý luận, mà quên thực hành, để đi vào trăm ngả thị phi. Con đường đó chính là Thiền định và Thiền quán.

Thiền có lẽ đã có từ rất lâu đời. Có lẽ ngày xa xưa con người tự dưng phát hiện ra những giây phút rơi vào trạng thái sảng khoái, siêu thoát nào đó, một trạng thái "hỷ lạc" nào đó, nói không được, mà chỉ có thể cảm nhận, trực nhận bởi chính bản thân mình, rồi tích lũy kinh nghiệm, truyền đạt lại cho nhau bằng nhiều cách. Chính đức Phật, trong khi tìm kiếm con đường giải thoát, tình cờ nhớ lại tuổi ấu thơ của mình có lần đã rơi vào trạng thái sơ thiền mà nhanh chóng phát hiện ra con đường thiền riêng của mình, con đường không những “diêt trừ khổ ưu” mà còn dẫn đến “thành tựu chánh trí”, giải thoát rốt ráo. Trước đó ngài đã từng rời bỏ những con đường thiền khác. Rõ ràng thiền đã có từ xa xưa nhưng thiền Phật giáo có những sáng tạo riêng rất đáng nghiên cứu và thực tập. Không phải vô cớ mà ngày nay các trung tâm y khoa lớn trên thế giới đưa thiền vào giảng dạy như một liệu pháp hữu hiệu chữa trị nhiều thứ bệnh thời đại.

Thế nhưng đọc cả chồng sách luận về thiền càng dễ tẩu hỏa nhập ma, bởi có lẽ nó là cái gì đó “bất khả thuyết" và đặc biệt "bất khả đắc" khi ta nóng lòng muốn "chộp" lấy nó! Nói cho cùng, thiền có vẻ thật đơn giản mà không giản đơn chút nào. Nó như thách thức những nhà triết học, các học giả, mà lại mỉm cười với anh hàng thịt, người gánh rau, bởi nó đòi hỏi sự chuyên tâm thực hành, thể nghiệm trên chính bản thân mình hơn là ngàn chương khảo luận. 
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của đức Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành niệm (Kàyagatàsati), Nhập tức xuất tức niêm (ànàpànasati) với một động tác cốt lõi: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra, thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn... Tóm lại, quán sát hơi thở, hay đặt chánh niệm vào hơi thở. Chỉ có vậy Mà vô vàn. Mà nói không được.

Dù gọi là Thiền (Việt) hay Chan (Hoa), Zen ( Nhật)... thì cũng đều do dịch âm từ Dhyana (Sankrist) hay Jhanas (Pali). Theo ngữ nguyên thì Jha là nhìn, là quán sát hay quan sát và Ana là thở, hơi thở, khí. Vậy, Jhanas hay Dhyana chính là quán sát hơi thở. Đơn giản vậy mà không giản đơn chút nào Đức Phật đã nhắc đi nhắc lại như là một chìa khóa căn bản. Phải mở cái cửa này đã rồi các cửa khác mới mở tiếp được.
Vấn đề là tại sao và cách nào để chỉ từ một việc có vẻ rất giản đơn là quán sát hơi thở lại có thể dẫn tới tuệ giác? Quán sát hơi thở thì có gì hay? Tại sao không quán sát các đối tượng khác? Thật ra thì quán sát cái gì cũng được cả, bởi tất cả đều là "pháp". Nhưng quán sát hơi thở thì có điều kiện dễ thấy "ngũ uẩn giai không" tức vô ngã hơn. Vô ngã ở đây không còn là một ý niệm, một khái niệm mà là một trạng thái.

Dĩ nhiên để thấy "vô ngã" thì phải từ "ngã". Nên tốt nhất là chọn một đối tượng sẵn có ngay trong bản thân mình. Chẳng hạn như tâm mình, thân mình. Nhưng tâm thì nhảy nhót triền miên, khó bắt dừng lại để quán sát; còn thân thì lục cục đi đứng nằm ngồi đâu có dễ mà chăm chăm dòm ngó! Tim đập cũng lúc nhanh lúc chậm, nhưng khó thấy, khó can thiệp. Dạ dày thì làm việc âm thầm, ngoài ý muốn, khó quan sát. Các bộ phận khác cũng vậy. Trừ hơi thở! 
Hơi thở dễ quan sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng thở. Đi đâu cũng thở. Quan sát nó thì không ai nhìn thấy, chỉ riêng ta với ta thôi! Mỗi phút lại phải thở cả chục lần. Lúc mau lúc chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc phì phò lúc êm dịu. Hơi thở lại gắn với cảm xúc! Rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta "nín thở". Lúc lo âu, ta hổn hển. Lúc sảng khoái ta lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Như vậy, thở gắn với tâm trạng, gắn với cảm xúc, thay đổi liên tục. Và nhờ đó mà thấy vô thường. Quan sát hơi thở do vậy ta quan sát được cảm xúc, tâm trạng.

Nói khác đi, quan sát được cái tâm ta. Tâm quậy phá, tâm lộn xộn, tâm an vui ta biết hết! Thở cũng lại gắn với hoạt động của cơ bắp: khi mệt, ta mệt "bở hơi tai", muốn đứt hơi, muốn hết hơi! Lúc đó ta chỉ mong được... xả hơi! Do vậy mà quan sát hơi thở ta quan sát được cái thân ta. Thân mệt, thân khỏe, thân an vui ta thấy biết hết! Rõ ràng chỉ có hơi thở mới là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân và tâm ta. Không chỉ thế, thở còn vừa là ý thức, vừa là vô thức. Lâu lâu muốn ngưng chơi một chút cũng được, nhưng đến một lúc, nó tự động thở. Như không cần ta, như ở ngoài ta, như không phải ta. Nói khác đi, quan sát thở, ta có dịp đào sâu xuống...vô thức. 
Chẳng hạn thở gắn liền với sự sống chết. Còn sống là còn thở, chết là hết thở, là tắt thở, là ngừng thở. Mở mắt chào đời, thở vào; nhắm mắt lìa đời thở ra. Mỗi hơi thở như một kiếp sống, một đợt sóng lăn tăn nối tiếp. Mỗi hơi thở vào ra trung bình khoảng 5-10 giây. Mỗi giây, trong cơ thể con người đã có hằng trăm triệu tế bào hồng cầu bị hủy diệt và hằng trăm triệu hồng cầu khác được sản sinh. Thở có thể làm chuyển biến tâm trạng ta, chuyển hóa cảm xúc ta, cả hành vi ta. Nó tác động hai chiều như một phản ứng hóa học! Đang giận, đang tức cành hông, mà kịp tập trung quán sát hơi thở của mình thấy nó kỳ cục, tức cười, bèn thở chậm lại, quên giận lúc nào không hay! Quán sát hơi thở lôi kéo ta về hiện tại tức khắc, điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển! Nói cách khác, ta có thể dùng hơi thở làm trung gian để kiểm soát thân tâm ta, làm cho tâm yên ắng (an tịnh), thân êm ắng nếu muốn!

Ta biết hô hấp không phải xảy ra ở phổi mà ở từng tế bào. Cơ thể ta có hằng vạn tỷ tế bào. Hô hấp diễn ra trong từng tế bào, ở đó, các phản ứng hóa học dùng oxy từ phổi đưa vào để tạo ra năng lượng cho cơ thể hoạt động và tồn tại. Người lao động nặng cần năng lượng gấp ba bốn lần người bình thường, trong đó hoạt động cơ bắp đã chiếm hết một nửa. Riêng não bộ, với trọng lượng rất nhỏ bé, chỉ chiếm 2% thể trọng mà đã tiêu dùng đến 30% khối lượng oxy đưa vào cơ thể. Giận dữ, lo âu, sợ hãi tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Cho nên những lúc đó ta dễ cảm thấy kiệt sức, rã rời là vậy! Ngủ là cách giảm tiêu hao năng lượng, nhưng vẫn còn co cơ, vẫn còn chiêm bao. 
Một đêm ác mộng sẽ thấy bải hoải toàn thân khi thức giấc? Thiền giúp tiết giảm tiêu thụ năng lượng một cách đáng kể, hơn cả giấc ngủ. Một khi cơ thể giảm tiêu thụ năng lượng thì các tế bào được nghỉ ngơi, nên toàn thân cảm thấy nhẹ nhàng sảng khoái. Trạng thái nhẹ nhàng sảng khoái đó xảy ra trên từng tế bào của cơ thể, một cảm giác lâng lâng dễ chịu toàn thân của hành giả, phải chăng chính là trạng thái hỷ lạc (thiền duyệt)?

Khi thân thể đã hoàn toàn thư giãn, buông xả, thì có vẻ như chỉ còn phần "khí" vận hành. Khí đó từ bầu khí quyển, từ vũ trụ, từ thiên nhiên. Các sinh vật cùng chia sẻ một cách... bình đẳng, theo nhu cầu. Ta hút lấy oxy của không khí, lại tạo ra carbonic; trong khi cây cỏ hút carbonic lại tạo ra oxy. Con thằn lằn, con tắc kè, con ễnh ương... cũng phình ra xẹp vào như vậy. Bầu khí quyển vẫn không thay đổi, không thêm bớt từ ngàn xưa. Nhưng chính con người làm hại môi trường sống của mình, tiêu diệt cây xanh, đến nỗi phải mua từng bình oxy mà hít? Phổi ta hoạt động như cái piston để bơm khí vào ra. Áp suất âm, khí được hút vào; áp suất dương, khí được đẩy ra, Có một thời điểm ngắn, ở đó, áp suất cân bằng, không âm không dương, khí bên trong phổi và ngoài phổi là một: kho trời chung mà vô tận của mình riêng (NCT). Tự mỗi người phải thực hành và cảm nhận, tự thể nghiệm, tự chứng nghiệm.

“Pranasati…”
Đối với tôi, cụm từ bí hiểm mà có sức...hấp dẫn nhất là "hành thâm Bát Nhã" trong Tâm kinh: "Quán Tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”. Bát nhã là gì? Ba la mật là gì? Làm sao mà có thể giúp "chiếu kiến ngũ uẩn giai không"? Tại sao các vị học Phật uyên thâm, các vị đại Thiền sư như Cưu-ma-la-thập, Huyền Trang lại không dịch mà chỉ phiên âm Bát-nhã ba-la-mật từ "Prajna paramità" của tiếng Phạn? Hẳn có điều chi khó nói. Nói không được. Nói không được bởi sợ nói không hết ý, còn có thể bị hiểu lầm, sinh chuyện! Cho nên các vị thận trọng, giữ nguyên âm, để mỗi người tự tìm lời giải đáp cho mình. 
Rồi "hành" là gì? "thâm" là gì? Cách nào? Một người thực sự tu hành thì chẳng ai cần thắc mắc lôi thôi như vậy. Nhưng một người bình thường, nhất là một người thầy thuốc như tôi, bị "méo mó" nghề nghiệp, không thể không mày mò tìm kiếm dù cho biết là "bất khả đắc"!. Có một "cơ chế' gì không? Có một "công thức" gì không, như của Einstein chẳng hạn để chuyển hóa vật chất thành năng lượng? Thử nhìn từ góc độ y sinh học, mối liên quan giữa thân và tâm, giữa Khí và Trí (Bát nhã) xem sao. Dĩ nhiên ta biết trí Bát nhã ở đây không phải là cái trí "thông minh", cái kiến thức tích cóp thông thường. Một người thông minh có thể dùng suy luận để hiểu duyên khởi, hiểu không, hiểu vô ngã, nhưng đó chỉ là cái hiểu bằng ý niệm, bằng khái niệm. Và như vậy, không thể "độ nhất thiết khổ ách" được! Bởi không, vô ngã ở đây phải là một trạng thái, một thứ thấy biết từ trong định, trong tuệ.

"Hiệu quả sẽ chứng minh- Edward Conzé, người dịch kinh Kim Cũng sang tiếng Anh hơn nửa thế kỷ trước nói vậy- chính trong đời sống hàng ngày, ta sẽ thấy hiệu quả?". Tôi cũng thấy vậy! Phải được kiểm nghiệm trong đời sống hằng ngày. Phật giáo không là một tôn giáo thần bí, một triết học viễn mơ, mà là một khoa học, thực nghiệm, thể nghiệm, gắn với đời sống con người, hạnh phúc con người. Phật dạy đừng bàn phiếm nữa. Thực hành đi, rồi tự thấy, tự biết. Hãy đến, thử rồi biết! Nó sẵn có đó rồi. Đừng tìm đâu cho mất công. Hãy quay về nương tựa chính mình. Nghe có vẻ lạ lẫm. Nhưng quả đúng như vậy. Bởi nói cho cùng, ai có thể thở giùm ai? Ai có thể "thiền" giùm ai? Ai có thể "quán" giùm ai? 
Chuyện xưa kể không ít trường hợp có người không tin, tìm đến Phật để tranh luận. Phật bảo xin ông làm ơn thử cách của tôi một thời gian, rồi sau đó hãy tranh luận. Thử xong, nhiều người quỳ xuống đánh lễ, xin làm đệ tử, không nhắc tới chuyện tranh luận nữa! Có vẻ đơn giản, nhưng thực ra không giản đơn chút nào, bởi phải hết sức miền mật, hết sức chăm chút. Phải thực sự "hành" và thực sự "thâm". Phải ngấm sâu vào "từng tế bào" của cơ thể để chuyển hóa thân tâm và từ đó có thể phát hiện ra bao điều kỳ diệu, không chỉ "diệt trừ khổ ưu mà còn "thành tựu chánh trí". Dĩ nhiên cần có khá nhiều điều kiện hỗ trợ. Bởi luôn luôn gặp vô số những trở ngại cần phải vượt qua. Mà, trở ngại lớn nhất chính là muốn "thủ đắc", trong khi nó vốn "vô sở đắc".

Quán niệm hơi thở (Nhập tức xuất tức niệm) chỉ là bước đầu dẫn đến Định, nhưng để vượt qua, đến Tuệ thì còn phải quán niệm ở những tầng sâu hơn, xa hơn. Trong nhịp thở bình thường của chúng ta, trước mỗi giai đoạn thở vào và thở ra có một quãng lặng, nghỉ "xả hơi". Quãng lặng "xả hơi" đó ở cuối thì thở ra - trước khi thở vào trở lại- thường kéo dài hơn, thong dong hơn, nhẹ nhàng hơn, yên tĩnh hơn. Đó chính là giai đoạn "prana". Pra có nghĩa là trước và ana là thở vào (cũng có nghĩa là sau thì thở ra). Về sinh học đây là giai đoạn áp suất trong phổi bằng không (zéro). 
Lúc đó khí trong phổi và khí vũ trụ chan hòa thành một, không phân biệt. Prana đã được biết đến từ xa xưa. Yoga của ấn Độ, khí công bên Trung Quốc, cũng như y học Đông phương cổ đại đã nói đến. 
Trong yoga có pranayama, kiểm soát hơi thở. Trong thiền định, không phải là vấn đề kiểm soát hơi thở mà hơi thở sẽ tự kiểm soát? Hành giả chỉ "mượn" quán niệm hơi thở để dẫn đến định và những quán tưởng sâu xa hơn. Đến một lúc nào đó hành giả không cảm nhận mình đang thở nữa! Đó chính là khoảng lặng. Sự an tịnh. Sự hòa tan. Sự tan biến. Có thể nói đến một "pranasati" ở đây chăng?

Phổi như một cái máy bơm "phình xẹp" để đưa khí vào ra là nhờ có áp suất thay đổi. Khi áp suất âm trong phổi và các phế nang thì khí bên ngoài tự động tràn vào, tuôn vào, lấp đầy các phế nang, cho đến một lúc lượng khí bên trong phổi đầy dần lên thì chuyển sang áp suất dương, phổi đẩy khí ra. Lúc áp suất cân bằng nhau, hay nói cách khác, bằng "zéro" thì khí bên trong và bên ngoài hoàn toàn giống nhau. Lúc đó chính là quãng lặng, giai đoạn "xả hơi" sau mỗi lần hít thở, và không hề tốn năng lượng. Những vị thiền sư giàu kinh nghiệm (thiện xảo) thường nói đến giai đoạn thở mà như không thở, gần như ngưng thở khi vào sâu trong định. 
Ở đây họ đã không còn ý niệm gì về hơi thở, về không gian, thời gian, về ta, về người... Hình như đã hòa nhập vào tất cả, với tất cả, lắng đọng, thanh thoát. Tiến trình hô hấp vẫn diễn ra sâu trong các tế bào, nhưng ở mức thấp nhất, nhẹ nhàng nhất, vì nhu cầu sản xuất năng lượng không đòi hỏi cao nữa! Lúc đó cơ thể như cánh chim lượn bay, không phải vỗ cánh, như xe đang ở số không, ngon trớn, chạy không tốn xăng.

Phải chăng đó là lúc thiền giả ở trong một trạng thái sảng khoái, dễ chịu gọi là hỷ, lạc. Nhưng nếu dừng lại ở đây thì chưa phải là thiền Phật giáo. Thiền Phật giáo còn tiến xa hơn thế. Bầu khí quyển chúng ta thở hôm nay so với cách đây 700 triệu năm - tức là khi có những sinh vật đơn bào đầu tiên trên trái đất- nói chung cũng chẳng khác biệt chút nào! Với người anh em đơn bào cách đây 700 triệu năm thì ta cũng cùng hút chung một thứ khí, cùng bú chung một "núm vứt vũ trụ, cùng với muôn loài khác nữa. Khoa học đã chứng minh chuyển hóa cơ bản trong thiền thấp hơn cả trong giấc ngủ. Do vậy mà các thiền sư không có nhiều nhu cầu về các chất dinh dưỡng được cung cấp bởi thức ăn. Định và Giới gắn bó chặt chẽ với nhau là vậy? Đời sống tiết độ, tri túc, kham nhẫn, tỉnh giác…phải chăng có thể góp phần giải quyết những vấn đề sức khỏe thời đại của chúng ta hôm nay?

Nguồn: Chẳng cũng khoái ru? - NXB Văn Nghệ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16152)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3738)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6113)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6313)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 4013)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8357)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5628)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15652)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10858)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7945)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]