Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duyên Phật (tường thuật khóa tu)

13/03/201406:31(Xem: 7461)
Duyên Phật (tường thuật khóa tu)

Ngay_2_khoa_tu_AuChau (31)Ngay_2_khoa_tu_AuChau (30)khoatu_auchau_7a-khoatuauchau_dot_3 (24)
Duyên Phật

(ờng thuật về khóa tu học Phật Pháp Châu Âu thứ 13 tại Thụy Điển)

—Trần Bảo Toàn

Mùa hạ, mùa tốt đẹp nhất trong năm tại Châu Âu. Cây lá xanh tươi, mặt trời ấm áp mang lại sinh khí cho vạn vật. Các hãng xưởng, công ty giảm mức sản xuất xuống thấp nhất để cho nhân viên được đi nghỉ ngơi dưỡng sức, sau những ngày tháng quần quật vất vả với công việc. Nhưng cũng chính trong những ngày này, bà con Phật tử Việt Nam tại Châu Âu cả Châu Mỹ, Châu Á và Châu Phi cũng rộn ràng khăn gói lên đường để tham dự khóa tu học Phật Pháp Châu Âu, lần thứ 13, được tổ chức tại Vương Quốc Thụy Điển.

Thật ra tôi đã nghe rất nhiều về khóa tu học vì hai lần tổ chức tại Thụy Sĩ, nơi gia đình tôi định cư và ba mẹ tôi thường xuyên tham dự. Riêng bản thân tôi, dù muốn, nhưng việc học, việc làm dồn dập tôi rất ít thời gian hay nói rõ hơn duyên chưa khởi nên tôi chưa có dịp gần gũi Chánh Pháp.

Năm nay, nhìn lịch trình làm việc, tôi rảnh được ba ngày, cộng hai ngày cuối tuần, vé máy bay đặt có ngay, mọi thiện duyên hội đủ, tôi khăn gói đi... tu, dù chỉ là gieo duyên tu thử.

Máy bay của tôi đáp xuống phi trường Göteborg vào chiều thứ bảy, giữa khóa. Một chú trong Ban Tổ Chức đón tôi.

Cũng như Thụy Sĩ, Đức, Hòa Lan, Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Lục Xâm Bảo... Cảnh trí Thụy Điển thật bình an, phố sá sạch sẽ, ngăn nắp.

Dọc hai bên đường về trại, những rừng thông lá thấp thoai thoải trên những ngọn đồi. Mặt trời Thụy Điển dường như dịu đi bởi những làn gió biển mơn man thổi về. Trên bầu trời trong xanh, vài con hải âu bay lượn, thỉnh thoảng kêu lên oang oác tạo nên một khung cảnh sinh động với âm thanh đặc biệt.

Nửa tiếng sau, xe ngừng trước một ngôi trường trung học. Lá cờ Phật Giáo ngũ sắc luôn tung bay trong gió. Ngoài sân các anh chị em trẻ đang chơi bóng rổ, cầu lông, bóng chuyền. Các vị lớn tuổi đang thảnh thơi đi dạo qua lại. Mặt mày tất cả thật bình thản an lạc.

Sau bữa cơm chiều, tôi còn đang bỡ ngỡ với không khí trong trại, mẹ yêu quý của tôi - tham dự trước tôi vài hôm - níu vai áo của tôi rồi đưa tôi tờ chương trình văn nghệ do bà chịu trách nhiệm: "Giúp mami làm M.C. văn nghệ tối nay nhé". Tôi lắc đầu nguầy nguậy: "Con còn lạ lẫm lắm. Mami nên chọn ai khác đi". "Không còn ai khác nữa vì các anh em trong Gia Đình Phật Tử tối nay bận chương trình riêng". Tôi vẫn lắc đầu: "Con còn lạ quá mà!". "Trước lạ sau quen. Đây là cái duyên tạo cơ hội cho con thân thiện gần gũi với mọi người. Đứng không, con sẽ chán lắm đấy". Thấy mẹ... năn nỉ, vì mẹ, tôi bất đắc dĩ nhận lời.

Buổi văn nghệ khá thành công. Dù các anh em "nghệ sĩ" thuộc "cây nhà lá vườn" nhưng ai nấy đều hăng say đóng góp với đầy đủ tiết mục: ngâm thơ, vọng cổ, ca vũ nhạc và kịch khiến mọi người cười vui thoải mái. Không khí thật thản nhiên, cởi mở. Các vị Tu sĩ khả kính cũng lần lượt được mời lên sân khấu. Niềm vui trong tôi chợt dâng trào. Cái cảm giác bỡ ngỡ lạ lẫm ban đầu không còn nữa thay vào một thứ tình cảm nhẹ nhàng thanh thoát đang tỏa ra từ tôi và những con người đang hiện diện nơi đây. Trong phút chốc tôi có cảm tưởng hồn tôi mở rộng quyện với mọi người. Đứng trên sân khấu lộ thiên, tôi đảo mắt một vòng, qua ánh sáng mặt trời đã nhá nhem của 10 giờ đêm, tôi vẫn nhận ra những gương mặt thanh thản, an bình xuất ra từ thiện tâm mà hơn 12 năm qua lăn lộn với cuộc sống trên xứ người, tôi ít khi nào thấy được. Nơi đây, đã không còn những nét đăm chiêu, tư lự, quạu quọ bởi thời gian thúc bách đẩy con người lao vào cuộc bon chen, tranh giành, đố kỵ... nơi trần thế. Ôi, phải chăng đây là lẽ nhiệm mầu của đời sống tâm linh ?

Sáng hôm sau, vì mới đến và tham dự lần đầu, Ban Tổ Chức bố trí tôi làm việc trong Ban Hành Đường (tiếp tân) mà cô em họ 14 tuổi không rành tiếng Việt của tôi dịch nôm na "đi hầu". Tôi lờ mờ nghe mẹ tôi giải thích, hướng dẫn, ai đến đây cũng đều có công tác để làm, chả ai "hầu" ai, hoặc hôm nay mình "hầu" người thì hôm khác người "hầu" lại. Nghe cũng có lý. Cũng được thôi. Nhưng công việc "hành đường": dọn bàn, bưng thức ăn, rót nước, rửa chén và nhất là trong khi mọi người xì xụp ăn uống vui vẻ thì những người trong Ban Hành Đường như tôi phải đứng xớ rớ ở một góc nào đó chờ thiên hạ... sai bảo !

Công việc này thật ngượng ngùng đối với tôi. Vì trong cuộc sống thực tế, với nghề nghiệp của tôi: Chuyên dự các cuộc họp báo, thuyết trình, đọc và phân tích các tin tức kinh tế tài chính... tôi luôn được người "hầu", chiêu đãi, tiếp tân một cách trang trọng.

Thế mà tại đây, tôi bị nghiệp quả nào (có lẽ nghiệp tự tại) phải trả làm việc đó ? Tôi hơi bất mãn, không vui, và cảm thấy danh dự bị xúc phạm, tổn thương. Nhưng cái cảm giác khó chịu này chỉ trong thoáng chốc tan biến nhanh khi nhìn thấy sự bình thản, an nhiên, vui vẻ của những người "đồng nghiệp" hành đường (trong đó có cô em họ 14 tuổi) khi làm việc và sau vài buổi nghe Phật Pháp, tụng kinh, được sự ủng hộ của Bát Nhã Tâm Kinh: "Bất sinh, bất diệt, bất tăng, bất giảm... và... bất cao, bất thấp" tôi vùng tỉnh ngộ. à thì ra, tôi đã thường đặt "cái tôi" của mình quá cao. Chính cái tôi tối thượng đó tạo cho ta thái độ cao ngạo, tâm phân biệt giàu nghèo sang hèn để ta không bắt được pháp thân tự chuốc lấy phiền não, khó chịu, không vui. Anh giàu thì anh hiến Kỳ Viên để Phật thuyết pháp. Tôi nghèo thì tôi cúng bát sữa, dâng nắm cỏ để Phật ngồi. Tuy giá trị vật chất trần thế khác nhau, song giá trị tâm linh, tâm bố thí công đức đều giống nhau. Suy luận như vậy, tôi thấy lòng thanh thản, an vui.

Những ngày hôm sau, tới phiên. Bưng các món chay, chạy lăng xăng xếp đặt từ bàn này tới bàn kia cho non 600 người, tôi vui vẻ... đi hầu, miệng vừa hát nho nhỏ: (sửa lời hát "Giọt nước mắt cho ngàn sau" của nhạc sĩ Từ Công Phụng). "Một mai anh đi tu, người cho anh tạ lỗi. Vì kiếp sống anh tương chao rồi! Nhìn nỗi khổ chúng sinh, lệ đẫm trái tim anh. Dĩa xào này anh bưng đến bàn... em!".

Thì ra tu không hẳn là gõ mõ, tụng kinh, trì chú, thiền định. Tu, chính là cách nghĩ đúng, làm đúng trong công việc hàng ngày.

Từ đó, nơi đây, lòng tôi tìm được sự an lạc, sau những tháng ngày ngụp lặn trong bể vô minh. Tôi đã tự làm khổ mình và làm đau người khác. Khi ngồi nghe kinh trong chánh điện, hồn tôi như chơi vơi giữa bóng tối và ánh sáng. Những hiểu biết về Phật Pháp qua sách vở, qua cái nhìn của nhà khoa học, chỉ là "tu ngoài da", theo lời của Cư sĩ Trần Hữu Lễ. Lẽ huyền vi của tâm linh, không chỉ là mớ kiến thức của trần thế, nhà Phật gọi thứ này là "trí thế biện thông". Trí thế biện thông không những không giúp cho việc giác ngộ, mà lại còn làm trợ lực và bao bọc vô mình nữa. Lời thầy giảng, lời khai phóng thân tâm,lời dẫn dắt cái tâm hoang đàng của chúng sinh về với chánh giác, cao thâm tuyệt diệu vô cùng. Tôi phát nguyện sẽ đến với Phật Pháp thường hơn. Ta cứ nghĩ Phật tại tâm, nhưng tâm ta ở đâu ta không hề rõ, Phật cũng đã xa lắm rồi vậy.

Nhưng có lẽ kỳ diệu nhất trong lần tu học này là có duyên gặp gỡ với những người con Phật. Tâm tôi đã rung động mãnh liệt khi nghe câu chuyện của anh Đào Quang Vinh, pháp danh Thiện Hiển, đến với đạo Phật và nhìn thấy các em nhỏ Tô Hiến Hào 3 tuổi, Đồng Hoàng Việt -Thiện An 9 tuổi và Nguyễn Tống Julia Đại 13 tuổi. Tôi xin trình bày lần lượt sau đây.

Để đóng góp cho chương trình văn nghệ bế mạc khóa tu học, Ban Hành Đường chúng tôi cũng có vở kịch hài. Tất cả đều được chuẩn bị đầy đủ, cốt chuyện đã có, kịch bản đã viết, diễn viên đã tập... chỉ còn thiếu mỗi vai chánh! Vai chánh phải là một người nói tiếng Bắc ròng không pha trộn, thì vở kịch mới thành công được. Tôi chợt nghĩ đến em Quang Minh, em 10 tuổi, bạn thân của cậu bé kỳ diệu Thiện An. Quang Minh tốt tướng như Đức Phật Di Lặc, luôn cười và nói tiếng Bắc đặc sệt. Cậu bé ăn chay trường, lúc nào cũng tíu tít vui vẻ. Em cho biết em đến khóa tu học với bố em. Vậy bố em cũng phải nói tiếng Bắc. Tôi nhờ Quang Minh dắt tới làm quen. Anh Quang Vinh, thân phụ Quang Minh) có gương mặt rất hiền, đẹp trai, có nét trầm tư và phảng phất gợn buồn. Anh đắp y và mặc áo tràng, nên anh càng thánh thiện. Cái nhìn đầu tiên, tôi hơi thất vọng. Không thể nào ngờ một người thế này diễn tuồng hài được. Anh Quang Minh đạo mạo quá, từ tốn quá, trong khi nhân vật chánh của vở hài phải biểu lộ được vẻ hôn hỗn, lấc cấc một chút mới ăn tiền. Bắt tay anh, qua vài câu chào hỏi, anh nói tiếng Bắc rất... nguyên chất. Tôi trình bày vấn đề, mời anh cộng tác. Quang Vinh bày tỏ thiện chí đóng góp, song anh cũng ngại mình có gương mặt không được hài cho lắm. Sau khi đọc kịch bản, anh đồng ý diễn thử. Cởi bỏ y và áo tràng, nhìn anh có vẻ... khả quan hơn.

Chúng tôi vô cùng mừng rỡ, khi Quang Vinh diễn xuất xuất sắc hơn những mong chờ. Vai chánh là một anh chàng lấc xấc, nhanh nhẹn, nóng nảy... nhưng với Quang Vinh nhân vật này trở nên hợm hĩnh, học làm sang, vô minh quái đản! Tôi lấy làm lạ, anh chàng trông rất ngoan đạo, hiền lành thánh thiện mà sao khi diễn vai đời lại xuất sắc như thế? Nét trầm tư, vài nét rất đời trên gương mặt đạo. Hẳn anh phải có một đời sống thế tục khác thường.

Sau khi tập kịch, chúng tôi thả bộ trong khuôn viên trường học, vì khóa tu học được tổ chức tại một trường Trung Học. Trời nắng đẹp, nhưng dường như cái cảm giác lành lạnh Bắc Âu vẫn quanh quẩn đâu đây. Có người bảo, gió lạnh từ Bắc Cực thổi xuống, người lại nói gió lạnh từ những khe núi thổi về. Trên những vách núi cao ở Na Uy, Thụy Điển quanh năm đóng băng. Buổi trưa nắng, băng tan chút đỉnh, nước chảy tí tách, chiều về chúng lại đóng băng. Cái biến đổi trạng thái của nước từ lỏng thành băng, băng thành lỏng ở miền Bắc Âu giống như vòng luân hồi của kiếp chúng sinh. Tôi hỏi anh Quang Vinh có đi tu học thường không ? Chúng tôi nói chuyện rất tương đắc về nhiều lãnh vực, đời sống thế tục và đời sống tâm linh. Anh cho rằng nhiều người sinh ra là có đủ cả vật chất lẫn đời sống tâm linh. Có người chả có thứ gì, cái gì cũng phải tìm phải tạo! Anh vui vẻ kể cho tôi con đường tìm đến Đạo Phật của anh.

Quang Vinh sinh ra tại Hà Nội, sang Đông Đức theo diện Lao Động Hữu Nghị XHCN. Sau ngày chế độ Cộng Sản tại Đông Đức nói riêng và Đông Âu nói chung sụp đổ, anh và gia đình ở lại định cư tại thành phố Leipzig. Ngày đó, anh không hề có chút hiểu biết gì về Đạo Phật. Sự thờ cúng ông bà, đình miếu, chùa chiền, anh lờ mờ hiểu đó là đời sống tâm linh. Cuộc sống thế tục quay cuồng, đối với anh bấy giờ là cuộc sống duy nhất, Quang Vinh bận rộn bươn chải với đời.

Mới 29 tuổi, anh đã tạo dựng được một tài sản khá lớn. Tiếng tăm của anh được nhiều bà con Việt Nam tại Đông Âu biết đến. Anh là người đầu tiên thành lập khu Thương Xá cho người Việt buôn bán tại Đông Đức. Tiền bạc rủng rỉnh, hợp với tính hiếu khách và vui vẻ, anh trở thành cái gạch nối cho bà con ngoại kiều giữa hai thế giới Đông Tây. Các thương gia, nghệ sĩ từ Mỹ, Tây Đức, Thụy Sĩ, Anh Quốc, Nhật, Việt Nam v.v... khi đến Đông Âu để tìm cơ hội làm ăn, đầu tư, tìm hiểu đời sống xã hội... thường lấy nhà anh làm trạm dừng chân.

Thế rồi vô thường tìm đến! Anh bị người xấu đâm thọc. Cả hệ thống Thương Xá, nhà hàng, công ty dịch vụ của anh theo nhau đổ xuống như những quân cờ Domino. Chẳng những, nhà cửa tài sản riêng bị niêm phong, tịch thu - gia đình anh Quang Vinh còn mang một món nợ kếch sù. Trong những ngày tối tăm nhất của cuộc đời, anh Vinh tìm đọc các sách về tướng số, phong thủy để tự tìm hiểu nguyên nhân thất bại của mình và coi tướng những người cộng sự sau này. Anh có tâm nguyện rất thiết thực: "Nếu tôi có được sự hiểu biết về những môn học thuật này, tôi sẽ nguyện giúp đỡ những người khác, để họ khỏi đi vào con đường khốn khổ của tôi nữa!".

Trong các môn Bói Toán, Tướng, Phong Thủy đều đề cập đến chữ Phước Đức, đến Nghiệp và Quả. Để tìm hiểu sâu xa về những vấn đề này, anh đã đọc và nghiên cứu về Đạo Phật. Càng đi sâu vào nghiên cứu, anh càng thấy Đạo Phật thâm sâu và khoa học. Từ đó anh phát nguyện tìm Thầy Bổn Sư và xin quy y Tam Bảo. Sau 3 năm ròng rã tìm kiếm, anh đã bái Thượng Tọa Thích Như Điển, Viện chủ chùa Viên Giác làm Thầy Bổn Sư. Thầy cho anh pháp danh Thiện Hiển. Anh vô cùng hoan hỉ, với pháp danh này, anh thấy được ý nghĩa đời sống Cư Sĩ. Muốn Hiển Vinh thì phải Hướng Thiện! Sau 6 năm quần quật làm việc ngày đêm, anh đã trả được gần hết nợ nần. Cuộc đời an lạc thong dong trở lại, anh để thêm thời gian trau giồi Đạo Pháp và phát tâm nguyện giúp đỡ hướng dẫn những người xung quanh có được đời sống tâm linh an lạc. Anh tâm sự: "Nếu Quang Minh có đủ duyên để xuất gia, vợ chồng tôi rất hoan hỉ chấp thuận. Nhưng cháu nó phải lớn khôn hơn chút nữa và tự quyết định".

Chúc gia đình anh an lạc.

Tất cả các học viên trong khóa tu học tại Thụy Điển, không ai không biết đến cô bé "phiền não" Thị giả Nguyễn Tống Julia Đại. Em 13 tuổi, rất thánh thiện và xinh đẹp. Mỗi sáng, cô bé dậy vào lúc 5 giờ 30 phút. Cô đi rung chuông đánh thức mọi người, vệ sinh sớm để chuẩn bị cho thời công phu sáng. 11 giờ khuya cô là người đi ngủ sau cùng, sau khi bắt mọi người phải trở về phòng an nghỉ, để sáng mai dậy sớm. Giờ điểm tâm, quá ngọ, cơm chiều, giờ kinh cầu công phu, giờ giáo lý, giờ ăn chè trưa... đều có tiếng chuông của cô nhắc nhở. Nhiều bạn trẻ đang chơi thể thao, nói chuyện vui vẻ, bị tiếng chuông hối thúc vào đời sống theo quy luật trại, bèn đặt cho cô cái tên "Thị Giả Phiền Não" !

Julia Đại, có gương mặt thánh thiện, thanh tú, mắt sáng, mày dài, trên môi luôn nở nụ cười an lạc. Cô nàng xin xuống tóc tu gieo duyên. Hỏi cô tại sao cô bé lại tu gieo duyên. Cô cho biết vì bà ngoại, ông nội của cô bị bệnh, cô phát nguyện làm việc thiện để cầu phước cho ông bà. Khi nói về cảm nghĩ của cô sau khóa tu học. Cô hơi buồn và cho biết: "Em sẽ nhớ bạn, nhớ Thầy lắm. Ở đây, thiếu ngủ, hơi mệt nhưng thật vui!". Hỏi cô về ước muốn trong tương lai: "Em muốn đi tu để cầu phước và an lạc cho tất cả mọi người, cùng tất cả chúng sinh". Ôi cố bé 13 tuổi, cái tuổi của ô-mai và mơ mộng đây mà, sao lòng cô đã biết những đạo hạnh của Bồ Tát vậy? Chắc tôi sẽ nhớ mãi cô bé vừa thánh thiện, vừa dễ thương, tay rung chuông, miệng luôn cười, thấy tôi là kêu lên: "Má anh kêu anh đi ăn, đi ngủ hay đi học kìa!".

Trong những ngày tu học tại Thụy Điển, lòng tôi tìm lại được sự thanh thản, an vui, sau bao tháng ngày sống quay cuồng, vất vả cùng cuộc sống. Nhưng có một lần trong những ngày này, tôi thấy mình muốn khóc. Khóc không phải vì đau buồn, mà vì cảm động. Thượng Tọa Như Điển, chùa Viên Giác, có một chú Thị giả Thiện An 9 tuổi. Trong một buổi giảng, Thầy cho gọi chú đến trước đại chúng. Chú cúi đầu đảnh lễ và Thầy hỏi đại chúng muốn nghe Kinh gì ?

Đại chúng bảo Kinh Lăng Nghiêm, chú đọc Kinh Lăng Nghiêm. Đại chúng bảo Chú Đại Bi, chú đọc Chú Đại Bi. Đại chúng bảo nói Bát Nhã Ba La Mật, chú đọc Bát Nhã Ba La Mật.

Chao ơi, những câu chú câu kinh bằng Phạn ngữ khó khăn làm sao. Trong những buổi công phu, tay tôi cầm sách, dồn hết tinh thần vào những dòng chữ, mà miệng đọc theo không kịp. Những câu kinh thật dài, thật khó và không hiểu nghĩa là gì, làm sao có thể học thuộc lòng được đây?

Khi Thượng Tọa Viện Chủ chùa Viên Giác hỏi: Sau này lớn lên con làm gì?

- "Mô Phật, con đi tu!". Chú đáp.

- Con đi tu để làm gì? Thầy hỏi thêm.

- "Mô Phật, ccon đi tu để cứu độ chúng sinh!"

Lòng tôi xúc động mạnh, xưa nay tôi chỉ tìm hiểu Đạo Phật trên phương diện khoa học. Tất cả các nghi lễ trong đạo, tôi đều đặt chúng trên một cơ sở logic tâm lý. Vậy hiện tượng của chú Hoàng Việt pháp danh Thiện An, 9 tuổi này phải giải thích sao đây? Có phải chú là một vị Thiền Sư tiền kiếp nào tái sanh chăng? Những ngày ở trại, tôi lân la làm quen và đi chơi với chú. Chú là cậu bé rất đặc biệt, tinh tế, thông minh, vui vẻ và đặc biệt chăm học.

Ngay_2_khoa_tu_AuChau (32)

Có một Bác hỏi cậu ăn chay hay ăn mặn, cậu trả lời là cậu ăn chay. Bác lại hỏi cậu ăn chay bao lâu rồi? Cậu trả lời: "Con được 9 tuổi rưỡi". Bác ấy bảo "Bác hỏi con ăn chay được bao lâu rồi, chứ đâu có hỏi con mấy tuổi đâu?". Cậu trả lời: "Thưa Bác, con chưa bao giờ ăn thịt!". Tôi hỏi: "Tại sao Thiện An lại ăn chay trường?". Cậu bé bảo: "Vì như vậy không nợ chúng sinh!".

Mẹ của Thiện An là người đàn bà hiền hậu, chị chỉ phát nguyện được sống trong chánh pháp và làm tất cả cho con chị được trọn đạo tu hành, cứu khổ chúng sinh. Chị xin Sư Bà cho thí phát, để cầu cho con chị được chư Phật đoái thương, độ trì nhanh tinh tiến trên con đường tu học. Mong chị được toại lòng.

Một buổi, sau giờ kinh chiều. Từ chánh điện đi xuống, tôi gặp một hiện tượng lạ. Cậu bé con, chân chưa đủ dài để bước lên các bậc thang, cậu dùng hai tay vịn lên bậc thang trên để đu lên. Hình ảnh thật ngộ nghĩnh: Cậu ta bò lên chánh điện. Tôi cúi xuống ẵm cậu lên và hỏi: "Con đi đâu đây? Con tìm mẹ hả? Cậu muốn tụt xuống để có thể tự bò lên chánh điện một mình. Tôi không buông tay, cậu rối rít: "Mô Phật, con đi tu tâm! Mô Phật con đi tu tâm!". Giọng của cậu còn ngọng líu lô, tôi không hiểu, hỏi lại: "con đi đâu?". "Mô Phật, con đi tu tâm". Tôi lại hỏi "Tâm ở đâu?". "Tâm ở trong tâm". Phật ôi, tôi sợ quá! Người ta bảo đất lành chim đậu, chắc đây là đất Phật, nên "Phật con" xuất hiện nhiều quá! Tôi ẵm cậu bé xuống dưới sân trở lại, cậu ta có nụ cười của hoa Vô Ưu. Tôi chưa bao giờ thấy hoa Vô Ưu (có sách cho rằng là hoa Sung. Sung thuộc lại hoa nở trong bọc, thế thành ra chẳng ai thấy nó nở bao giờ), nhưng khi đọc kinh Phật, tôi có tưởng tượng rằng hoa ấy rất đẹp, rất tươi và rất quý. Thì đây, tôi bắt gặp nụ cười của cậu bé Nick Tô Hiến Hào, 3 tuổi. Hỏi rằng: Con tên gì? Con tên Nick. Nick mấy tuổi? Nick 3 tuổi. Tuổi con gì? Tuổi con Cọp. Cọp ăn gì? Cọp ăn chay. Nick con ai? Nick con Phật A Di Đà.

Cậu bé có ngũ quan đoan chính, tam đình rõ ràng nở nang, đầu tròn lớn, nụ cười Vô Ưu. Tôi thầm nghĩ, nếu cậu bé đi tu, cậu sẽ đắc thành chánh quả. Tôi gặp ba má của bé, anh chị là người Phật tử thuần thành. Khi thụ thai cháu, chị thường đi chùa lạy Phật, cúng dường chư Tăng. Sanh ra cháu rất dễ nuôi và rất thích ăn chay.

Những ngày tu học qua thật nhanh. Năm ngày đã hết, tôi lên máy bay trở về trú quốc trước ngày bế mạc. Lòng bịn rịn rộn ràng. Nhìn những nụ cười rạng rỡ, những khuôn mặt thanh thản, những sự dấn thân công tác Phật sự để cúng dường Tam Bảo, để phục vụ đồng bào, tôi chợt hiểu, ngoài đời sống chụp giật bên ngoài, người ta còn cần có đời sống tâm linh. Tâm bình, thế giới bình là thế. Giã từ khóa tu học, tôi nguyện với lòng, sẽ trở lại hằng năm. Phật tại tâm, nhưng tâm ta lạc lõng, Phật cũng lạc loài lắm vậy.

(Thụy Sĩ, mùa Vu Lan 2001)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2022(Xem: 2144)
Được sự thương tưởng và hỗ trợ của chư Tôn đức và quí vị thiện hữu hảo tâm, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện xong 9 giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo lân cận vùng núi Khổ Hạnh Lâm & các làng ven quốc lộ từ Bodhgaya đi Varanasi, tiểu bang Bihar India .
10/12/2022(Xem: 4183)
Kính chia sẻ cùng chư Tôn Đức, chư pháp lữ, và quí thiện hữu một số hình ảnh trong mùa Tipitaka (Đại Tạng Kinh PaLi) khai hội tại Bồ Đề Đạo Tràng. Đây là lần thứ 17 trùng tụng Tipitaka theo thông lệ hàng năm. Lễ hội quan trọng năm 2022 này do Phật Giáo Việt Nam đăng cai tổ chức nên tất cả mọi trần thiết, trang hoàng đều do Ban tổ chức Hội trùng tụng Kinh tạng Pali VN thực hiện, nổi bật nhất là cổng chào với hình ảnh hoa tươi rực rỡ “Lưỡng Long chầu Pháp Luân” rất đẹp mắt, khiến ai ai cũng trầm trồ ngợi khen và tán dương công đức. Lễ hội trùng tụng Tipitaka năm nay có các nước Phật Giáo tham gia trùng tụng Đại Tạng như: Nepal, Sri-Lanka, Lao, Campuchia, ThaiLand, Myanmar, Việt Nam, Bangladesh, India, International...Chương trình được khai mạc trang trọng vào ngày 2 tháng 12 cho đến ngày 12/12/2022 là bế mạc, với gần 5000 người tham dự . Nguyện cầu tiếng kinh này vang vọng đến ba ngàn thế giới khiến chúng sanh vạn loài thảy đều nghe ba nghiệp từ đó được thanh tịnh. Và xin nguyện
03/12/2022(Xem: 1362)
Loạt bài "Tiếng Việt từ TK 17" đã đề cập đến một số cách dùng Hán Việt đặc biệt như sinh thì (~qua đời, chết), Kinh Tại Thiên, Kinh Tin Kính, Kinh Thiên Chúa, lịch sự, thượng hoà hạ mục, thượng phụ, trung phụ, hạ phụ, thượng đế, thiên chủ/chúa2 ...v.v…Phần 37 này bàn thêm về cách dùng một số từ Hán Việt thời LM de Rhodes đến truyền đạo: sự (~thờ) 事, thửa (~ sở) 所, kì 其, giao cảm 交感, tinh thần 星晨, đang/đương thì 當時, củ thủ 糾手, thiểu ngữ 少語. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&
25/11/2022(Xem: 1680)
Lời mở đầu của người chuyển ngữ Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định một vị tỳ-kheo trong Tăng đoàn thực thi các phép lạ để thu phục được nhiều người hơn. Thế nhưng Đức Phật khẳng định là Ngài không hề dạy các tỳ-kheo của mình làm phép lạ, mà chỉ giảng dạy họ phải làm thế nào để biến mình từ một con người bình dị trở thành một con người cao quý hơn, đưa mình đến sự Giải thoát cuối cùng và sự Giác ngộ tối thượng. Sự giảng và học hỏi đó tự nó cũng đã là một phép lạ. Đấy là nội dung của toàn bộ bài kinh, và cũng là "kim chỉ nam" giúp chúng ta theo dõi bài kinh rất phong phú, khúc triết, nhưng cũng rất phức tạp này.
25/11/2022(Xem: 4085)
Hành Hương Thắp Sáng Tâm Đăng và Cảm niệm Thâm Ân Đức Thế Tôn VỊ THẦY VĨ ĐẠI BẬC NHẤT CỦA NHÂN LOẠI. Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm cách giúp vua, cứu nước, Thái Tử Siddhārtha Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của con dã tràng xe cát - vì không giải mã được hố thẳm của lòng người (nguyên nhân của khổ uẩn). Với ý chí kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho kiếp nhân sinh.
22/10/2022(Xem: 2730)
Chia sẻ hình ảnh của Khóa tu nhân Lễ Vía Đức Bồ Tát Quan Âm tại Chùa Pháp Hoa Seattle Washington State do Ni Sư Thích Hạnh Nguyện và chư Đạo hữu Tịnh Thanh, Trí Tín tổ chức. Xin thành tâm cảm niệm tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni, chư thiện hữu, Phật tử đã nhiệt tâm hỗ trợ cho Khóa tu được thành tựu viên mãn và giai đại hoan hỷ...
12/10/2022(Xem: 1559)
Xin có lời tâm sự, rằng trong lòng tôi vẫn luôn luôn là một đứa trẻ rất mực ngây thơ, nghĩa là, chưa bao giờ lớn cả. Nói cho đúng, tôi đã lớn dậy giữa rừng văn học cổ tích quê nhà, đã say mê đọc truyện cổ về những vị Bụt bay tới khi có ai đó gặp nạn và ngồi than khóc, đã miệt mài với những thần thoại tuyệt vời trong Kinh Phật… Và rồi, tôi tin rằng Đức Phật không bao giờ rời bỏ chúng sinh.
30/09/2022(Xem: 2962)
Nam Mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Kính quý thiện hữu ''Sứ giả Từ Bi'' Đạo Tràng Kim Đài - CA Xin tường trình cùng Đại chúng. Tánh Tuệ vừa hoàn tất 8 giếng nước do quí Thiện hữu bố thí cho dân nghèo xứ Phật và vẫn Continue hoàn tất những giếng nước khác do quí thiện hữu phat tâm.
25/09/2022(Xem: 3546)
Thấm thoát đã đến Giỗ Trăm Ngày Cố Sa Di Ni Bồ Tát Giới Thích Nữ Hoa Khai danh Không Ngại Thân mẫu Trụ Trì tại Quan Âm
21/09/2022(Xem: 2590)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Chân Tâm chính là gia bảo Tâm, chẳng lẽ không quý trọng hơn tiền tài, vật chất sao? Bởi không có tâm thì ai đặt lên vật chất những giá trị? Tâm là bà mẹ sinh ra những đứa con (vật chất), nhưng phần nhiều con người ta thà vì tiền tài danh lợi mà phụ rẫy bản tâm, mà khiến cho tâm tổn thương chảy máu. - Quả báo của tất cả hạnh phúc, xuất phát từ Tâm. Sự trừng phạt của tất cả khổ đau, cũng bắt nguồn từ Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567