Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghi thức Thọ Trì Đại Bi Sám Pháp (giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng) Kính lạy đời quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai Chính là đời hiện nay Quán Thế Âm Bồ tát

12/03/201408:34(Xem: 28439)
Nghi thức Thọ Trì Đại Bi Sám Pháp (giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng) Kính lạy đời quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai Chính là đời hiện nay Quán Thế Âm Bồ tát



bo tat quan am
ĐẠI BI SÁM PHÁP

Tu Viện Quảng Đức  ấn tống 2005

Thich Nguyen Tang
Giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng


 


----o0o----

 

1.    Thanh tịnh Đạo tràng:

 Hành giả dâng hương xong, quì trước bàn Phật, đồng tụng:

TỊNH PHÁP-GIỚI CHƠN-NGÔN: Án lam. (21 lần)

TỊNH TAM-NGHIỆP CHƠN-NGÔN: Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN:Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (3 lần)
 
2. Cúng dường tâm hương:


Hương thơm giăng bủa

Thánh đức tỏ tường
Bồ đề tâm rộng chẳng suy lường
Tùy chỗ phóng hào quang
Lành tốt phi thường
Dâng cúng Pháp Trung Vương.
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát. (3 lần)

3. Tán dương Bồ tát Quán Âm:


Kính lạy đời quá khứ

Chánh Pháp Minh Như Lai
Chính là đời hiện nay
Quán Thế Âm Bồ tát

Bậc thành công đức diệu
Dũ lòng đại từ bi
Nơi trong một thân tâm
Hiện ra ngàn tay mắt

Soi thấy khắp pháp giới
Hộ trì các chúng sanh
Khiến phát lòng đạo sâu
Dạy trì chú Viên Mãn

Cho xa lìa đường ác
Được sanh trước Như Lai
Những tội nặng vô gián
Cùng bịnh ác lâm thân

Khó nỗi cứu vớt được
Cũng đều khiến tiêu trừ
Các tam muội, biện tài
Sự mong cầu hiện tại

Đều cho được thành tựu
Quyết định chẳng nghi sai
Khiến mau được ba thừa
Và sớm lên quả Phật

Sức oai thần, công đức
Khen ngợi chẳng hay cùng
Cho nên con một lòng
Qui mạng và đảnh lễ.

4. Đảnh lễ:


1. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế tôn (1 lạy)
2. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Thế tôn (1 lạy)
3. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quá khứ vô lượng ức kiếp Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Thế tôn (1 lạy)
4. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quá khứ cửu thập cửu ức hằng hà sa chư Phật Thế tôn (1 lạy)
5. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quá khứ vô lượng kiếp Chánh Pháp Minh Thế tôn (1 lạy)
6. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Thập phương nhứt thiết chư Phật Thế tôn (1 lạy)
7. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Hiền kiếp thiên Phật, tam thế nhứt thiết chư Phật Thế tôn (1 lạy)
8. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm đại đà la ni thần diệu chương cú (3 lần)
9. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quán Âm sở thuyết chư đà la ni, cập thập phương tam thế nhứt thiết tôn Pháp (1 lạy)
10. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Thiên thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Tự Tại Bồ tát ma ha tát (3 lần)
11. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
12. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Tổng Trì Vương Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
13. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Nhựt Quang Bồ tát, Nguyệt Quang Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
14. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Bảo Vương Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
15. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Hoa Nghiêm Bồ tát, Đại Trang Nghiêm Bồ tát, Bảo Tạng Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
16. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Đức Tạng Bồ tát, Kim Cang Tạng Bồ tát, Hư Không Tạng Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
17. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Di Lặc Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
18. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Thập phương tham thế nhứt thế Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
19. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Ma ha Ca Diếp tôn giả, vô lượng vô số đại Thanh văn Tăng (1 lạy)
20. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Xiển Thiên Thai giáo quán Tứ Minh tôn giả, Pháp Trí đại sư (1 lạy)
21. Nhứt tâm đại vị Thiện Tra phạm ma, Cù Bà Dà thiên tử, Hộ Thế tứ vương, Thiên Long bát bộ, Đồng Mục thiên nữ, Hư Không thần, Giảng Hải thần, Tuyền Nguyên thần, Hà Chiểu thần, Dược Thảo Thọ Lâm thần, Xá Trạch thần, Thủy thần, Hỏa thần, Phong thần, Thổ thần, Sơn thần, Địa thần, Cung Điện thần, tinh thủ hộ trì chú nhứt thiết thiên, long, quỉ, thần, cập các quyến thuộc, đảnh lễ Tam bảo. (1 lạy)

5. Hành giả Phát Nguyện:


Kinh dạy: “Nếu có vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay đồng nam đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau biết tất cả pháp.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm được mắt trí huệ.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau độ các chúng sanh.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm được qua biển khổ.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau được đạo giới định.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm lên non Niết bàn.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau về nhà vô vi.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.

“Nếu con hướng về nơi non đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.”

“Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.”

“Nếu con hướng về Địa ngục,
Địa ngục liền tự mau tiêu tan.”

“Nếu con hướng về loài Ngạ quỉ,
Ngạ quỉ liền được tự no đủ.”

“Nếu con hướng về chúng Tu la,
Tu la tâm ác tự điều phục.”

“Nếu con hướng về các Súc sanh,
Súc sanh tự được trí huệ lớn.”

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát. (10 lần)
Nam mô A Di Đà Phật. (10 lần)

6. Công năng thần diệu của chú Viên Mãn Đại Bi:


Quán Thế Âm Bồ tát lại bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào tụng trì thần chú Đại Bi, mà còn bị đọa vào ba đường ác, con thề không thành chánh giác.”

“Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không sanh về các cõi Phật, con thề không thành chánh giác.”

“Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài, con thề không thành chánh giác.”

“Tụng trì thần chú Đại Bi, tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà la ni.”

7. Bồ Tát thuyết chú:


Khi đức Quán Thế Âm nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, nở mặt mỉm cười, nói chương cú mầu nhiệm Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi tâm đà la ni rằng:


Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam-mô a rị da
Bø lô yết đế, thước bát ra da
Bồ-đề tát đỏa bà da
Ma ha tát đỏa bà da
Ma ha ca lô ni ca da
Án. Tát bàn ra phạt duệ
Số đát na đát tỏa
Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông
A rị da, bà lô kiết đế
Thất Phật ra lăng đà bà
Nam-mô na ra cẩn trì
Hê rị ma ha bàn đa sa mế
Tát bà a tha đậu du bằng
A thệ dựng
Tát bà tát đa
Na ma bà dà
Ma phạt đạt đậu
Đát điệt tha
Án a bà lô hê
Lô ca đế
Ca ra đế
Di hê rị
Ma ha bồ-đề tát đỏa
Tát bà tát bà
Ma ra ma ra
Ma hê ma hê, rị đà dựng
Cu lô cu lô kiết mông
Độ lô độ lô, phạt xà da đế
Ma ha phạt xà da đế
Đà ra đà ra
Địa rị ni
Thất Phật ra da
Giá ra giá ra
Mạ mạ phạt ma ra
Mục đế lệ
Y hê y hê
Thất na thất na
A ra sâm Phật ra xá-lợi
Phạt sa phạt sâm
Phật ra xá da
Hô lô hô lô ma ra
Hô lô hô lô hê rị
Ta ra ta ra
Tất rị tất rị
Tô rô tô rô
Bồ-đề dạ bồ-đề dạ
Bồ-đà dạ, bồ-đà dạ
Di đế rị dạ
Na ra cẩn trì
Địa rị sắc ni na
Ba dạ ma na ta bà ha
Tất đà dạ ta bà ha
Ma ha tất đà dạ, ta bà ha
Tất đà du nghệ
Thất bàn ra dạ, ta bà ha
Na ra cẩn trì ta bà ha
Ma ra na ra, ta bà ha
Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha
Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha
Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha
Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha
Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha

Nam-mô hắt ra đát na đa ra dạ da
Nam-mô a rị da
Bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha

Án tất điện đô, mạn đa ra
Bạt đà dạ, ta bà ha.
(tùy nguyện, mỗi lần nên tụng 3, 7, 9, 18, 21 hay 49 biến)

8. Nghe chú chứng quả:


Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động. Trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác. Mười phương chư Phật thảy đều vui mừng. Thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc.

Tất cả chúng hội đều được chứng quả.
Hoặc có vị chứng quả Tu đà hoàn.
Hoặc có vị chứng quả Tư đà hàm.
Hoặc có vị chứng quả A na hàm.
Hoặc có vị chứng quả A la hán.

Hoặc có vị chứng được Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, Ngũ địa cho đến Thập địa. Vô lượng chúng sanh phát tâm bồ đề.

9. Sám hối:


Chí tâm sám hối:

“Đệ tử chúng con, cùng pháp giới chúng sanh, hiện tiền một tâm vẫn đủ ngàn pháp, đều có sức thần cùng với trí sáng, trên sánh chư Phật, dưới đồng muôn loài.”

“Bởi niệm vô minh, che ánh sáng kia, nên đối cảnh hôn mê, khởi lòng chấp nhiễm, trong pháp bình đẳng, sanh tưởng ngã nhơn.”

“Lại do ái kiến làm gốc, thân miệng làm duyên, trong nẻo luân hồi, gây nên đủ tội: thập ác ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của Tăng kỳ, bức người tịnh hạnh, xâm tổn thường trụ, đồ vật thức ăn. Dù ngàn Phật ra đời, khó bề sám hối.”

“Những tội như thế, không lường không ngằn, khi bỏ báo thân, phải đọa tam đồ, chịu vô lượng khổ.”

“Lại trong đời này, do túc hiện chướng, hoặc bị các nghiệp, lửa phiền thiêu đốt, tật bịnh vây quanh, duyên ngoài lôi cuốn, tà ma quấy nhiễu, làm ngăn đạo pháp, khó nỗi tiến tu.”

“May gặp thần chú VIÊN MÃN ĐẠI BI, có thể mau trừ những tội như thế, cho nên nay con hết lòng tụng trì. CON NGUYỆN NƯƠNG VỀ QUÁN ÂM BÔÀTÁT, cùng Phật mười phương, phát tâm bồ đề, tu hạnh chân ngôn, cùng với chúng sanh, tỏ bày các tội, cầu xin sám hối, nguyện đều tiêu trừ.”

“Nguyện đấng đại bi Quán Âm Bồ tát, ngàn tay nâng đỡ, ngàn mắt chiếu soi, khiến cho chúng con duyên chướng trong ngoài thảy đều dứt sạch; mình, người hạnh nguyện, đều được viên thành; mở tánh bản trí, dẹp trừ ma ngoại; ba nghiệp siêng cần, tu nhân Tịnh độ.”

“Nguyện cho chúng con khi bỏ thân này không vào đường khác, quyết được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật Di Đà. Rồi được thân cận học hỏi với đức Đại Bi Quán Âm, đủ pháp tổng trì, rộng độ chúng sanh, đồng thoát khổ luân, đều thành Phật đạo.”

10. Lễ tạ Tam Bảo:
Đệ tử sám hối phát nguyện rồi, xin quy mạng đảnh lễ Tam Bảo:


Nhứt tâm đảnh lễ Nam mô Thập phương thường trụ Tam Bảo. (3 lạy)

11. Tâm Kinh Bát nhã ba la mật đa:


Bồ tát Quán Tự Tại

khi quán chiếu thâm sâu
bát nhã ba la mật,
(tức diệu pháp trí độ),
bỗng soi thấu năm uẩn
đều không có tự tánh.
Thực chứng điều ấy xong,
Ngài vượt thoát tất cả
mọi khổ đau ách nạn.

Nghe đây Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không,
không chẳng khác gì sắc.
Sắc chính thực là không,
không chính thực là sắc.
Còn lại bốn uẩn kia
cũng đều như vậy cả.

Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không.
không sanh, cũng không diệt,
không nhơ, cũng không sạch,
không thêm, cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không,
không có sắc, thọ, tưởng,
cũng không có hành, thức.
Không có nhãn, nhĩ, tỉ,
thiệt, thân, ý: sáu căn.
Không có sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp: sáu trần.
Không có mười tám giới:
Từ nhãn, đến ý thức.
không hề có vô minh,
không có hết vô minh,
cho đến không lão, tử.
Không khổ, tập, diệt, đạo.
Không trí, cũng không đắc.

Vì không có sở đắc,
khi một vị Bồ tát
nương diệu pháp trí độ
(bát nhã ba la mật)
tâm không còn chướng ngại.
Vì tâm không chướng ngại
nên không có sợ hãi,
xa lìa mọi điên đảo,
đạt niết bàn tuyệt đối.

Chư Phật trong ba đời
nương diệu pháp trí độ
(bát nhã ba la mật)
nên chứng vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng:
bát nhã ba la mật
là linh chú đại thần,
là linh chú đại minh,
là linh chú vô thượng,
là linh chú siêu tuyệt,
chân thật không hư vọng,
có năng lực tiêu trừ
tất cả mọi khổ nạn.
Cho nên tôi muốn thuyết
câu thần chú trí độ
(bát nhã ba la mật.)

Nói xong đức Bồ tát
liền đọc thần chú rằng:
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần)

12. Tán dương A Di Đà Phật:

A-Di-Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân,
Bạch hào uyển-chuyển ngũ Tu-di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải

Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, tiếp dẫn đạo-sư A-Di-Đà Phật.

Nam-mô A-Di-Đà Phật. (30 hay 108 lần)
Nam-mô Đại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Thanh-Tịnh Đại-Hải chúng Bồ-tát. (3 lần)

13. Sám hối và phát nguyện

Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội-ác bởi lầm mê,
Đắm trong sanh-tử đã bao lần,
Nay đến trước đài Vô-thượng giác

Biển trần khổ lâu đời luân-lạc
Với sinh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng

Đàn con dại, từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng từ quang
Lạy Phật-Tổ soi đường dẫn bước

Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyện
Xin sám hối để lòng thanh thoát

Trí Phật quang-minh như nhậït nguyệt
Từ-bi vô-lượng cứu quần-sanh
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi

Theo gót Ngài vượt qua khổ ải
Nương thuyền từ vượt bể ái hà
Nhớ lời Ngài: "Bờ giác không xa"
Hành thập thiện cho đời tươi sáng

Bỏ việc ác cho đời quang-đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi

Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,
Hình bóng người cứu khổ chúng-sanh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ

Chúng con khổ nguyện xin tự độ
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời
Phá si mê trí tuệ tuyệt vời
Con nhớ Đức Di Đà Lạc quốc

Phật A-Di-Đà thân kim sắc
Tướng tốt quang-minh tự trang-nghiêm
Năm Tu-di uyển-chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc

Trong hào quang hóa vô-số Phật
Vô-số Bồ-tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện-độ chúng-sanh
Chín phẩm sen-vàng lên giải-thoát

Quy mạng lễ A-Di-Đà Phật
Ở phương Tây thế-giới an lành
Con nay xin phát-nguyện vãng-sanh
Cúi xin đức Từ-Bi tiếp độ

Nam-mô Tây-phương Cực-Lạc thế giới, Đại-từ, Đại-bi A-Di-Đà Phật. (3 lần)

14. Sám nguyện

Đệ tử hôm nay quỳ trước điện
Chí tâm đảnh lễ đấng Từ Tôn
Đã bao phen sanh tử dập dồn
Trôi lăn mãi trong vòng lục đạo

Thế Tôn đã đinh ninh di giáo
Mà con còn đắm đuối mê say
Mắt ưa xem huyễn cảnh hàng ngày
Tai thích tiếng mật đường dua nịnh

Mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện gay go
Thân ưa dùng gấm vóc sa sua
Ý mơ tưởng bao la vũ trụ

Bởi lục dục lòng tham không đủ
Lấp che dần trí tuệ từ lâu
Hôm nay mong giác ngộ hồi đầu
Tâm sám hối phơi bày tỏ rõ

Nguyện tội ác từ nay chừa bỏ
Chuyển sáu căn ra khỏi lầm mê
Trước đài sen thành kính hướng về
Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo

Phật cấm giới chuyên trì chu đáo
Dứt tận cùng cội rễ vô minh
Chí phàm phu tự lực khó thành
Cầu Đại Giác từ bi gia hộ

Dầu phải chịu muôn ngàn gian khổ
Con dốc lòng vì đạo hy sinh
Nương từ quang tìm đến bảo thành
Đặng tự giác giác tha viên mãn

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

15. Hồi hướng:

Trì chú công-đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi-hướng
Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh
Tốc vãng Vô-Lượng-Quang Phật sát.

Hồi hướng lương duyên tam thế Phật
Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Tự Tại
Chư tôn Bồ tát ma ha tát
Ma ha Bát nhã ba la mật

Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não
Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo

Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung
Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ

Nguyện dĩ thử công-đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng-sanh
Giai cộng thành Phật-đạo.


16. Quy y tự tánh Tam Bảo:

Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhất thiết vô ngại. (1 lạy)
Đạo tràng hoàn mãn, hành giả đảnh lễ rồi lui ra.
 




 

Thich Nguyen TangTrở lại Tuyển Tập
TT Thích Nguyên Tạng



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4563)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7398)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4798)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4909)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5355)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10336)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9155)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6457)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8848)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5031)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]