Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đi Tu – Hành Trình Khám Phá Tâm Linh (2)

11/03/201410:06(Xem: 12617)
Đi Tu – Hành Trình Khám Phá Tâm Linh (2)


minh_hoa_quang_duc (297)
Đi Tu – Hành Trình Khám Phá Tâm Linh (2)

Trong những đối thoại hằng ngày mình hay nghe nói: ‘Bây giờ, ông Bảy ổng lo tu rồi!’ Hàm ý rằng: Giờ ông Bảy đã không còn như xưa nữa, đã thay đổi rồi! Như vậy tu là sữa đổi, từ bỏ những nếp sống xấu; đồng thời, kết nạp và trau giồi những lối sống tốt và thiện trong tâm. Kinh ‘Ví Dụ Tấm Vãi’ bằng một ví dụ đơn giản, Phật nói rõ sự khác nhau giữa một tâm ô nhiễm và một tâm thanh tịnh , như một tấm vải dơ đem nhuộm sẽ có màu loang lổ không đẹp. Ngược lại, cõi tốt lành chờ đợi một tâm không ô nhiễm, ví như tấm vải sạch khi nhuộm sẽ có màu đẹp đẽ.(Ni sư Trí Hải tóm lược). Hành trình đi tìm tâm cũng vậy. Bạn có thấy rằng đi tu cũng như uống thuốc ‘cải lão hoàn đồng’; nhưng ở đây thay vì dùng thuốc thì mình phải học thay đổi cách sống của bản thân qua những hành vi và cử chỉ hằng ngày, và từ lời nói đến hành động.

Tất cả những li ti nhỏ nhặt này được biểu lộ do tâm thức của mình đang hành hoạt ra sao, thường là trong tiềm thức. Ví dụ cách mình thích ăn các món ngọt vào một thời điểm nào đó trong ngày có thể biểu lộ cho mình thấy rằng: khi mình đang làm những việc mình không thích mình hay có khuynh hướng tìm kiếm những cái gì mình thích để xóa tan cái cảm giác khó chịu của mình khi ấy! Như có một vị thiền sinh kia thích ăn sô-cô-la (chocolate) vào giữa trưa khi còn đang làm kết toán cho một công ty nọ. Thói quen này trở thành sự nghiện ngập vì cô ta trở nên rất dễ nổi giận khi không ăn kẹo này vào giữa trưa. ( Những vị nào nghiện cà-phê cũng có thể có cảm giác giống như vậy! ) Sau này khi học cách quán chiếu tâm thức của mình, cô ta mới thấy rằng cô không thích công việc mình đang làm là kết toán khi ấy, nên khỏa lấp sự khó chịu, bực bội này bằng cách ăn kẹo sô-cô-la! 

Kinh Trung bộ - số 6 ‘Ước nguyện’ (cũng do Ni sư Trí Hải tóm lược) Phật có dạy:

Ðấng đạo sư nhắc nhủ
Tỳ kheo sống phòng hộ
Với Giới biệt giải thoát
Với chính niệm, uy nghi
Và thấy được hiểm nguy
Trong từng lỗi nhỏ nhặt
Bởi vì Giới dẫn đầu
Trong tất cả thiện pháp.

Phật dạy chúng ta phải ‘thấy hiểm nguy trong từng lỗi nhỏ nhặt’vì đây là những mầm mống tạo nên những thói quen, tập khí nguy hiểm trong tương lai. Chúng ta phải thấy rõ để ngăn chặn những nết xấu đang hình thành trong ta. Nếu bạn nhớ lại quá khứ khi bắt đầu tập một cái gì mới, bạn có thấy rằng thói quen uống cà-phê, hay rượu chè là do từ những hành vi rất là vô hại khi xưa. Nhưng thói quen này được mình yêu thích và duy trì cho đến khi mình sống mà không thể thiếu chúng được! 

Cho nên, sống phòng hộ là chúng ta sống với tâm luôn hướng đến việc thiện, việc lành. Tạo cho mình một thói quen đẹp, như một người tốt mà sống và làm việc nơi tranh giành, trục lợi thì không sớm thì muộn sẽ dễ bị ‘biến chất’. Hiện tại chúng ta cũng thường thấy các bậc quan chức, khi còn ‘hàn vi, chưa nổi tiếng’ họ đã sống theo một lý tưởng rất cao đẹp: hy sinh cá nhân để nước giàu, dân no ấm. Nhưng trong lối sống bon chen, tranh giành, trục lợi nơi quan trường khiến cho một số người đã đánh mất cái lý tưởng cao đẹp khi xưa! Trong thương trường hay tất cả các môi trường sống nào cũng vậy. Nếu bạn không biết phòng hộ, yểm ly (xa lìa) những môi trường xấu. Không khéo mình sẽ đánh mất mình vậy! Cho nên, Phật dạy phải sống biết phòng hộ.

Trong kinh Trung Bộ số 114: ‘Nên đào luyện và không nên đào luyện’Phật nói về những pháp cần đào luyện và không cần, rồi tôn giả Xá lợi Phất nói chi tiết đầy đủ. Trong đó, ngài Xá Lợi Phất nói chi tiết về việc những tâm hành xấu phát nguồn từ niệm khởi trong tâm. Từ ý niệm xấu này (nên nhớ chúng chỉ là những ý niệm, không phải là một thực thể), chúng ta phản ứng và chấp thủ theo chúng. Cho đến khi, chúng trở thành một quan niệm sống của mình. Từ đó, quan niệm sống này biến mình thành một con người có đặc tính, thói quen, và quan niệm sống xấu như vậy! Tu tập là một quá trình chuyển hóa nội tâm công phu và chi tiết. Từ việc ngăn ngừa những tập khí xấu, đến cấy trồng và trưởng dưỡng những căn lành đòi hỏi chí tu học phải vững bền, kiên quyết. 

Người muốn tu là người có một sự dứt khoát rõ rệt về con đường mình đã chọn vì chúng ta phải lìa bỏ hoàn toàn những cái mà mình cho là xấu xa, tệ hại, và bắt đầu sống đổi đời, sống thật với bản tâm. Nghĩa là, khám phá tâm linh, không chỉ là tìm biết một điều gì đó về chính bản thân mình, mà còn phải thay đổi cả con người mình. Đó mới thực sự là biết sống đạo. 

Tu tập theo Phật dạy, khi mình mới bước vào con đường sống đạo, không cần chúng ta phải phát tâm vô thượng Bồ đề, cứu độ tất cả mọi loài chúng sinh. Tu đạo là chúng ta biết quay về nhìn lại bản tâm của mình vì thiện hay ác, xấu hay tốt đều nằm ngay trong tâm. Thay đổi hay vô thường luôn luôn có mặt trong từng giây, từng phút nhưng chúng ta luôn tìm cách tránh né đối mặt với chúng vì không ai muốn chấp nhận cái gì không chắc thực, bền vững. Trong khi xã hội mình đang sống luôn đề cao thành công, ổn định, và phát triển nhanh. Riêng mình lại gặp hoàn cảnh luôn đổi thay khiến cho những kế hoạch dự định cho tương lai luôn phải chuyển hướng. 

Người biết sống đạo là người biết cách sống với thế giới luôn thay đổi, vô thường này! Sống thích hợp với hoàn cảnh gọi là tùy duyên. Cách sống tùy duyên cho ta sự hứng khởi với một cuộc sống luôn luôn đổi mới, không ù lì, không rập khuôn ngày nào cũng như ngày nấy! Như Sơ Tổ Trúc Lâm Vua Trần Nhân Tông (1258- 1308) trong bài phú Cư trần lạc đạo:


Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền!
(Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn, nhọc ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm, chớ hỏi thiền!)
(HT.Thanh Từ dịch)

Do vậy, tu tập không phải là một đời sống buồn chán, đơn điệu mà luôn đòi hỏi những sáng tạo, chế tác để tùy thuận với môi trường và hoàn cảnh. Tâm mình luôn được đem ra thử nghiệm với tình hình mới. Tu tập là khám phá tâm linh của chính mình, khám phá những của báu bí mật bị bỏ quên bên trong. Không phải ai cũng có thể sống đời sống đạo. Ai sống giả tạo, che giấu sẽ không thể thấy được đạo; hoặc sẽ sớm bỏ cuộc vì muốn sống đạo đòi hỏi mình phải luôn sống trung thực với chính mình. 

Tháng 3 - 2014

Thiện Ý

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2020(Xem: 6458)
Dù Đức Phật đã là một bậc Vô thượng chánh đẳng giác, nhưng Ngài cũng là một con người như bao nhiêu người khác nên không tránh khỏi nạn sanh lão bệnh tử trong đời này. Là một vị Sa-môn khiêm tốn, Đức Phật đã chọn nơi nhập diệt của mình ở một làng mạc xa xôi hẻo lánh, đó là làng Kushinagar, nơi có liên hệ mật thiết đến cuộc đời tu hành của Ngài trong một kiếp xa xưa. Tuy đã chuẩn bị như thế, nhưng những ngày tháng cuối cùng của Ngài vẫn là những ngày tháng làm việc không ngừng nghỉ. Mặc dù tuổi già sức yếu, nhưng Đức Phật không ngần ngại đi bộ trên những con đường chập chùng xa tắp, lên đèo xuống dốc, băng rừng vượt suối...
02/11/2020(Xem: 6324)
Hằng năm những người con Phật khắp nơi trên thế giới đều làm lễ cúng vía đức Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày âm lịch: - Ngày 19/02 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm đản sinh. - Ngày 19/06 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm thành đạo. - Ngày 19/09 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm xuất gia. Vào Triều Lý tôn Phật giáo Quốc đạo, dùng chủ nghĩa: Từ Bi hiện thực, lý tưởng Bồ tát đạo làm kim chỉ nam, Quốc sách An dân kiện toàn trong mọi lĩnh vực:
02/11/2020(Xem: 5238)
Trong các đề tài trước, chúng ta đã thảo luận về bản đồ của các Phật tử ở Jepara, tỉnh Java, Indonesia. Tuy nhiên, những Phật tử “tồn tại” (ada) ở jepar, tỉnh Java ngày nay, theo các vị bô lão, chỉ sinh sôi và phát triển vào năm 1965. Vậy thì Phật giáo ở Jepara trước năm 1965 có còn dấu tích gì không? Từ quá khứ rất xa xưa trước khi Indonesia “tồn tại” các Vương quốc lớn đã chiến thắng ở quần đảo Nusantara. Jepara là một trong những trung tâm của Vương quốc đã từng chiến thắng. Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia với Nữ hoàng Shima ở ngôi vua cai trị đất nước.
01/11/2020(Xem: 5729)
Chùa Tây Phương (Sùng Phúc Tự) ở huyện Thạch Thất thuộc Hà Tây cũ, nay là Hà Nội, chốn già lam thánh chúng còn lưu giữ đến 60 bức tượng cổ, đã trở thành bảo vật của chùa, và cũng là bảo vật quốc gia. Những pho tượng cổ này đều được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng, có tượng được tạc to hơn hình thể dáng vóc của người thường, và tất cả đều toát vẻ uy nghi thanh thoát...
01/11/2020(Xem: 4889)
Đại sư Tây Sơn (서산대사, 西山大師, 1520-1604), có đạo hiệu Thanh Hư Đường Tập (휴정휴정, 淸虛堂集) hay còn gọi là Đại sư Thanh Hư đường Hưu Tĩnh (청허당 휴정, 淸虛堂 休靜). Vị cao tăng thạc đức danh tiếng nhất Triều Tiên vào giữa cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, thuộc Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc. Cuộc đời của Ngài nổi bật qua công cuộc phát huy ánh sáng từ bi, trí tuệ, hùng lực, truyền bá tư tưởng tự do bình đẳng của đạo Phật, triết lý và biên soạn các tác phẩm Thiền tông.
31/10/2020(Xem: 4644)
Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961, vị tăng sĩ Phật giáo Sri Lanka, người kiến tạo Tu viện Phật giáo Mahamevnawa và Mạng lưới Truyền thông Shraddha. Ngài sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo, khi lên 6 tuổi cả gia đình Ngài đều quay về với đạo Tổ tiên Phật giáo. Năm 1979, vào ngày 26 tháng 3, 17 tuổi xuân, Ngài đến ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara, miền đông Sri Lanka, đảnh lễ cầu xin xuất gia với Đại lão Hòa thượng Dambagasare Sumedhankara Mahā Thero, Trưởng của Sri Kalyaniwansa Nikāya và là Trụ trì ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara vào thời điểm đó. Và thụ giáo học Phật pháp với Trưởng lão Hòa thượng Dikwelle Pannananda Thero tại ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara.
31/10/2020(Xem: 17626)
Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa Sư Bị (835-908) Vị Thiền Sư đặt nền móng cho Thiền Phái Pháp Nhãn Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Bảy, 31/10/2020 (15/09/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Phật pháp trụ trì Huyền lão gia Tây thiên Đông độ diễn ma-ha Thường ngồi hành đạo Hiếp tôn giả Ít muốn khiêm cung lão thượng tòa Nghìn dặm mang thư toàn giấy trắng Vạn thiên hùng biện vẫn không ngoa Tài ba xuất chúng hàng long tượng Pháp hội nương nhờ đạo mật-la (Thơ tán thán công hạnh Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa của HT Hư Vân, do HT Minh Cảnh dịch) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃
31/10/2020(Xem: 4416)
Hội thảo Học thuật sẽ được tổ chức để Kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Đại sư Tây Sơn (서산대사-西山大師, 1520-1604), người sẵn sàng quên mình vì nước, khi tổ quốc lâm nguy san hà nguy biến, khi triều đình liên tục bị đánh bại trong Chiến tranh Nhật-Hàn năm Nhâm Thìn (1592). Sự thiệt hại khủng khiếp trong cuộc chiến tranh này:
31/10/2020(Xem: 5571)
Hòa thượng họ Khổng (sau khi hoạt động Phật giáo Cứu quốc, do hoàn cảnh mới đổi thành họ Nguyễn) húy Hồng Hạnh, hiệu Vĩnh Đạt, thuộc dòng Lâm Tế thứ 40, sinh năm Tân Hợi (1911), niên hiệu Duy Tân năm thứ 5, tại xã Mỹ Nhơn, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình làm nghề nông sùng mộ đạo Phật. Hạt giống bồ đề khơi mầm, vườn hoa Bát nhã nở hoa, ấu niên 9 tuổi, những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa, ngài trở thành chú tiểu đệ tử của đại lão Thiền sư Khánh Thông, Tổ đình Bửu Sơn, xã Tân Thủy, huyện Ba Tri. Hòa thượng Bổn sư cho ngài thọ giới sa di vào ngày mùng Một tháng 07 năm Tân Dậu (1921) tại Bổn tự Bửu Sơn do bổn sư của ngài đương vi Đàn đầu Hòa thượng.
31/10/2020(Xem: 7564)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Chưa lúc nào bản thân chúng tôi thấm thía Lý Duyên Sinh Phật dạy như lúc này. Quả thật..''Cái này sinh thì cái kia sinh'', chân lý này vận hành trong mọi sự vật và mọi sự kiện, bởi vậy một khi Dịch Covid còn kéo dài là nạn đói xứ Ấn còn tiếp tục lê thê..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]