Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu chuyện đi đứng

10/03/201418:31(Xem: 8891)
Câu chuyện đi đứng
minh_hoa_quang_duc (246)

CÂU CHUYỆN ĐI ĐỨNG


Chân Hiền Tâm

Chuyển động biểu kiến của mặt trời
Mặt trời lên ở phương Đông, giữa trưa ở tại đỉnh đầu rồi ngả dần về phương Tây và mất bóng. Ngày nào cũng theo chu trình đó mà đi. 21/3 mỗi năm, mặt trời ở thiên đỉnh xích đạo. Những tia sáng mặt trời chiếu vuông góc với tiếp tuyến bề mặt trái đất ở xích đạo. Sau đó nó di chuyển dần lên chí tuyến Bắc và ở thiên đỉnh chí tuyến Bắc vào ngày 22/6.
Ba tháng sau nó lại ở thiên đỉnh xích đạo lần hai. Rồi sau đó chuyển dần về chí tuyến Nam và lên thiên đỉnh ở chí tuyến Nam vào ngày 22/12. Và cứ thế tiếp tục chu trình của mình…Khi chuyển động quanh mặt trời, trục của trái đất luôn nghiêng với mặt phẳng quỹ đạo một góc 66033’, thành khi đứng ở bề mặt trái đất, ta thấy mặt trời dịch chuyển từ xích đạo lên chí tuyến rồi trở về lại xích đạo v.v… mà thật không hề có sự dịch chuyển. Người ta gọi những chuyển động thấy bằng mắt mà không thực có đó là chuyển động biểu kiến[1].

Sự dịch chuyển của các hình toán học
Không có một chuyển động nào ở đó. Chỉ là những tấm hình rất phẳng. Trên đó, một mặt phẳng tròn màu xanh được trang điểm bằng những hình thoi màu đỏ nối tiếp nhau, xếp thành hình vòng tròn, nhỏ ở trung tâm và lớn dần lên ở bìa phẳng hình tròn. Một hình chữ nhật màu vàng được trang điểm bằng những hình oval xanh, lớn bé không đều, được xếp dọc tạo thành những hình trụ xoay vòng. Rồi những vòng hoa văn như bánh xe được đặt sát nhau v.v…[2]. Chúng được xắp xếp theo một cách mà khi nhìn vào, tất cả như đang dịch chuyển.
Mọi thứ đang chuyển dịch dù bản thân chúng không hề chuyển dịch. Chỉ nhờ sự kết hợp khéo léo giữa các hình ảnh toán học, màu sắc và cách nhìn của người xem mà thấy chúng dường như đang chuyển dịch không ngừng. Tôi in những hình ảnh đó ra giấy. Trên một mảnh giấy bóng cũng có mà in thành hình trắng đen cũng có. Tất cả những dịch chuyển đều biến mất. Chẳng còn gì ngoài những hình ảnh phẳng lỳ, không có chuyển động. Đó không phải là chuyện lạ. Bởi nhân duyên tạo hình thay đổi thì cái quả nhận được cũng thay đổi theo. Trong thế giới này, có bao nhiêu chuyển động được nhìn thấy bằng mắt mà thật không hề có chuyển động như những gì mình đã từng thấy?

“Không đến cũng không đi” của Trung Luận
Trong phẩm Phá đến đi, Bồ-tát Long Thọ nói kệ:

Đã đi không có đi
Chưa đi cũng không đi
Lìa đã đi chưa đi
Đang đi cũng không đi.

Diễn tả sự chuyển dịch trong ba thời một cách rất mộc mạc. Đã, là những gì thuộc về quá khứ. Chưa, là chuyện chưa tới ở vị lai. Đang, muốn nói đến việc xảy ra trong hiện tại. Cả ba thời đều không có đi. Tức không tìm thấy sự chuyển dịch trong cả ba thời.

Hì…
Chỗ động ắt có đi
Trong ấy có đang đi
Không đã đi chưa đi
Nhưng đang đi có đi.

Ít ai chịu chấp nhận những thứ đang hoạt động ì xèo trước mắt là không. Chuyển động trong quá khứ và vị lai có thể nói không, vì một thì chưa có và một thì không còn hiện diện. Nhưng hiện tại, không thể phủ nhận những gì đang diễn ra trước mắt. Đang đi nhất định có đi vì ở đó đang có sự chuyển động. Song Bồ-tát Long Thọ nói không. Ắt phải có vấn đề để bàn luận.

Làm sao nói đang đi
Mà có sự kiện đi
Nếu lìa sự kiện đi
Đang đi không thể được.
Nếu nói đang đi đi
Người ấy ắt có sai
Lìa đi có đang đi
Đang đi đi một mình.

Á à… Nói không đi, không phải là phá bỏ cái anh đang thấy là không. Những gì anh đang thấy không phải không, nhưng đó chỉ là cái thấy trong mộng. Vì là mộng, nên tuy thấy có đi có đến mà thực thì không đi không đến. Ngay khi mộng đã không. Tỉnh mộng đương nhiên hết. Nói không, là muốn nói những chuyển động, tuy thấy có đó mà chỉ như huyễn như hóa, không có chất thực, không có thực tánh.

Vì không pháp nào có thực tánh, nên hiện tại, vật lý không thể tìm thấy ở chuyển động một giá trị mang tính phổ quát. Trạng thái đứng yên hay chuyển động của một vật chỉ mang tính tương đối. Nó lệ thuộc vào vị trí của người quan sát. Người ngồi trên xe đạp sẽ thấy đường đi của đầu van là một chuyển động tròn đều quay quanh trục bánh xe. Người đứng bên vệ đường sẽ thấy đầu van chuyển động theo dạng hình cong lúc lên cao, lúc xuống thấp. Quỹ đạo của chuyển động mang tính tương đối. Một xe lửa đang chạy với vận tốc 40km/h. Người ngồi yên trên xe lửa sẽ có vận tốc là 0 đối với xe lửa, nhưng với người đang đứng ở vệ đường, người ngồi yên đó đang có vận tốc là 40km/giờ. Nghĩa là vận tốc trong chuyển động cũng mang tính tương đối[3].

Cho nên, muốn khảo sát một chuyển động không thể khảo sát chung chung mà phải dựa vào một thứ gọi là hệ quy chiếu. Nói theo ngôn ngữ nhà Phật là phải khảo sát trong một duyên nhất định nào đó. Tức chuyển động là pháp nhân duyên. Nhân duyên thì “Pháp do nhân duyên sinh/ Ta nói tức là không”[4]. Đó là lý do vì sao Bồ-tát Long Thọ nói đang đi cũng không đi. Là muốn nói mọi chuyển động tuy thấy có mà không có tự tánh.

Bài kệ, không nói đến hệ quy chiếu cũng không nói đến vận tốc, chỉ lý luận đơn giản rằng: Làm sao nói đang đi mà có đi? Nếu nói đang đi có đi, tức cho nó có tự tánh, thì nó phải đáp ứng đủ ba điều kiện là tự có, độc lập và thường trụ[5]. Nhưng mọi chuyển động không có thứ nào tự có hay độc lập. Vì đều là pháp nhân duyên. Đều phải nương vào pháp khác mới hiện tướng được. Như “đang đi”, phải nương vào sự kiện đi mới có “đang đi”. Không thể không có sự kiện đi mà nói có đang đi. “Đang đứng” cũng phải nương vào sự kiện đứng mới nói “đang đứng”. Không có sự kiện đứng mà nói có đang đứng, là trông gà hóa cuốc. Vì thế, kệ nói “Nếu lìa sự kiện đi/ Đang đi không thể được”. Không có “sự kiện” đi thì “đang đi” không thể thành lập.

Như vậy, điều kiện để một chuyển động được cho là có, là nó phải đang xảy ra. “Đang đi”. Nhưng cái đang xảy ra đó là pháp nhân duyên, vì phải nương vào pháp khác mới hiện thành được. Pháp nhân duyên, “Ta nói tức là không”. Vật lý hiện đại đã nói đến cái gọi là không-thời gian liên thể. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận nói: “Thực tế, chúng tạo thành một cặp rất thống nhất mà sự vận động của chúng luôn bổ sung cho nhau”[6]. Thời gian và không gian bây giờ không còn được xem là những thực thể độc lập như thời Newton.

Hãy chú ý đến mấy từ “độc lập” mà các vị đã dùng để nói về thời gian. Nó giúp chúng ta hiểu câu “Đang đi đi một mình”. Nếu bạn thấy có một chuyển động đang diễn ra và bạn cho nó có, tức có thực tánh, là bạn đang dùng quan điểm của Newton để nhìn sự vật, cho thời gian và không gian là những thực thể độc lập với nhau và độc lập với vật.

Với cái nhìn của những nhà vật lý hiện đại, thời gian không còn “đi một mình”, nó không tách lìa không gian. Và vật là thứ quyết định sự co dãn của chúng[7]. Chúng là pháp nhân duyên. Pháp do nhân duyên sinh, “Ta nói tức là không”. Vật lý hiện đại đã nói đến tính không độc lập của thời gian và không gian (là mặt nhân duyên của pháp), cũng nói đến tính không phổ quát của chúng (là mặt không có thực tánh của pháp), nhưng chưa thể thấu được cái gọi là thực tánh của nhân duyên. Như hàng Nhị thừa chưa nhận ra được thực tướng của Tứ đế, Thập nhị nhân duyên hay Niết-bàn. Chưa thấu được cái lý tất cả đều từ tâm sinh, đều lấy tâm vô sinh làm gốc. Đó là thứ mà nền vật lý hiện đại chưa thể hình dung, nhưng Trung luận đã bàn đến.

Mặt trời thấy có chuyển dịch mà thật không có chuyển dịch, chỉ vì trái đất xoay quanh. Đến đi vốn không đến đi mà thấy có đến đi, chỉ vì tâm động. Tâm động nên cảnh vật thấy đổi dời mà thật không có đổi dời. Lục Tổ nói: “Không phải phướng động. Không phải gió động. Tâm nhân giả động”[8].

“Đi” lấy “Đi mà không đi” làm nghĩa
Văn Thù hỏi cô Am Đề Già[9]:
- Sinh lấy gì làm nghĩa?
Am Đề Già đáp:
- Sinh lấy “Sinh mà không sinh” làm nghĩa.
Văn Thù hỏi:
- Sinh lấy “Sinh mà không sinh” làm nghĩa là sao?
Am Đề Già thưa:
- Nếu hay rõ biết bốn duyên đất, nước, gió, lửa chưa từng tự được, tuy có chỗ hợp mà chỉ tùy chỗ ứng hợp. Đó là nghĩa sinh.

Hỏi tiếp:
- Tử lấy gì làm nghĩa?
- Tử lấy “Tử mà không tử” làm nghĩa.
- Là nghĩa lý gì?
- Nếu hay rõ biết bốn duyên đất, nước, gió, lửa chưa từng tự được, tuy có chỗ ly mà chỉ tùy chỗ ứng hợp. Đó là nghĩa tử.

Rồi Am Đề Già hỏi Văn Thù:
- Đã rõ biết cái lý sinh là không sinh thì sao vẫn cứ sinh tử xoay vần?
Văn Thù đáp:
- Vì lực chưa đủ.

“Lực chưa đủ” là căn nguyên khiến mọi cái thấy trở thành hạn cuộc, không còn nhìn pháp đúng như chính nó. Cũng khiến cho kẻ dù đã thấu được cái lý “sinh mà không sinh”, “tử mà không tử”, vẫn chưa thoát được cửa ải sinh tử. Gốc là tâm, nên đất, nước, gió, lửa chưa từng tự được. Nói “tự” đó, là không do cái khác mà được. Nhưng có thứ nào không từ tâm sinh[10]. “Tâm sinh thì tất cả pháp sinh. Tâm diệt thì tất cả pháp diệt”[11]. Đâu có chủ thể để tự quyết cho thân phận mình mà nói tự được. Chưa từng tự được!. Sinh tử như thế thì đi đứng cũng không khác. Đều cùng một thể mà ra. “Đi” lấy “Đi mà không đi”làm nghĩa. “Đứng” lấy “Đứng mà không đứng” làm nghĩa. Hiểu không? Đừng nói là lực chưa đủ…

Hóa nhân thì không có đến đi
Thời Phật còn tại thế, có tín nữ tên Hằng Hà Thượng. Người ta gọi cô là Ưu-bà-di Hằng Hà Thượng[12]. Một lần, cô đến vườn Cấp Cô Độc trong thành Xá-vệ gặp Phật. Phật hỏi:
- Cô từ đâu đến?
Hằng Hà Thượng thưa:
- Bạch Thế Tôn! Nếu hỏi hóa nhân[13] “ngươi từ đâu đến” thì phải đáp ra sao?
Phật trả lời:
- Là hóa nhân thì không có đến đi cũng không có sinh diệt, làm sao nói đến đi?
Hằng Hà Thượng thưa:
- Bạch Thế Tôn! Các pháp không phải đều là hóa nhân sao?
Phật đáp:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời tín nữ đã nói.

Không có đến đi vì tất cả đều là hóa nhân. Đều là sở hiện của tự tâm, như ngủ rồi mộng. Trong mộng thấy có đến đi mà thật là không có đến đi. Cho nên, Hằng Hà Thượng trả lời:
- Nếu các pháp đều như hóa nhân, sao Thế Tôn còn hỏi con từ đâu đến?
- Người huyễn hóa thì không đến đường ác, không sinh lên trời, không chứng Niết-bàn. Hằng Hà Thượng, cô cũng vậy sao?
- Bạch Thế Tôn! Nếu con thấy thân khác với huyễn hóa mới có thể nói đến đường ác, sinh đường thiện và chứng Niết-bàn. Con không thấy thân khác huyễn hóa, sao lại nói đến đường ác và chứng Niết-bàn? Bạch Thế Tôn, như tánh Niết-bàn, rốt ráo không thể sinh thiện ác đạo cùng bát Niết-bàn. Con thấy thân con cũng như vậy.

À, té ra… thấy có tới lui dịch chuyển như hiện nay là tại chưa sống được với cái thật, chưa nhận ra được cái gọi là thân huyễn hóa, tâm vọng tưởng. Cảnh trong mộng vẫn còn thật khi người ngủ chưa hết mơ. Bởi còn chấp sắc thân và tâm vọng động này là thật nên chưa thể thoát được cái nhìn rơi vào nhị biên phân biệt. Nhị biên không trừ thì chưa thể nhận ra sự huyễn hóa của thân tâm. Cứ tưởng lầm những hình ảnh toán học kia thật có chuyển dịch mà không thấy mặt nhân duyên kết hợp của chúng. Lìa nhân duyên ấy ra, chuyển dịch hoàn không. Vì tánh nó vốn không.

- Không phải cô đang hướng đến Niết-bàn giới đó sao?
- Bạch Thế Tôn! Nếu đem lời hỏi này hỏi chỗ vô sinh thì thế nào?
- Vô sinh là Niết-bàn.
- Bạch Thế Tôn! Các pháp không phải đều đồng với Niết-bàn sao?
- Đúng vậy! Đúng vậy!

Lần thứ hai, Đức Phật xác nhận lời nói của Hằng Hà Thượng là đúng. Các pháp đều đồng với Niết-bàn. Bởi tánh các pháp chính là tâm vô sinh. Tâm vô sinh và Niết-bàn không hai không khác. Nhập Niết-bàn, chính là trở về thể nhập lại thể tánh vô sinh của chính mình, cũng là cội nguồn từ đó phát sinh vạn pháp.

Cái gọi vô sinh đó, chính là Tri kiến Phật nói trong Pháp hoa, là Tướng không nói trong Bát-nhã, là Bát bất của Trung luận, là Chân như của luận Đại thừa khởi tín v.v…[14] Tất cả pháp đều đồng cái cội gốc ấy, đều đang ở trong Niết-bàn.

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đã đồng với Niết-bàn, sao còn hỏi con “Cô không đang thú hướng niết bàn giới sao?”.

Niết-bàn không lìa tâm mà có thì sao còn hỏi con chuyện thú hướng. Ngay nơi cái tâm vọng động phân biệt này mà dừng đi những chấp trước phân biệt thì Niết-bàn vô trụ xứ liền đó. Niết -bàn này không đồng với Niết-bàn của Nhị thừa, thấy có sinh tử để ly, Niết-bàn để vào. Niết-bàn này là tự thể vô sinh của tất cả pháp. Nhập Niết-bàn chính là sống lại được với tánh thể vô sinh ấy.
Sống được với tánh thể vô sinh ấy thì thấy tất cả những gì có tướng đều là hư vọng. Tuy thấy đến đi mà thật không có đến đi. Tuy thấy chuyển động mà thật không có chuyển động. Nói theo Trung luận thì “Không đi đến cũng không phải không đi đến”. “Không đi đến” vì tự thể vốn không. “Không phải không đi đến” vì mê tình chưa hết, đủ duyên liền hiện, không thể nói không.
________________________________

[1]http://diavinhlong.forumvi.com/t267-topic.

[2]http://thinhupro.wap.sh/anhao/anhao

[3] http:// thuvienvatly.com

[4] Nói trong phẩm Phá Tứ đế. Vì sao nói “Pháp do nhân duyên, là không” thì trong phẩm Phá nhân duyên, Luận chủ đã dùng lý luận cho thấy nhân duyên sinh là không, là vô sinh. Đây, dùng phần hệ quả đó mà nói.

[5] Quy ước khi nói về pháp có tự tánh.

[6] Giáo sư Trịnh Xuân Thuận, Giai điệu bí ẩn và con người đã tạo ra vũ trụ, Phạm Văn Thiều dịch, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.

[7] Giai điệu bí ẩn và con người đã tạo ra vũ trụ, tr.86 ghi: “Thời gian đã mất đi tính phổ quát của nó. Cũng như không gian, thời gian trở nên đàn hồi. Nó dài ra hay co ngắn lại tùy thuộc vào chuyển động của người đo nó”.

[8] Pháp bảo đàn kinh, phẩm Tự Thuật.

[9] Mẫu truyện này được lấy từ kinh Lăng nghiêm tông thông, Thiền sư Nhẫn Tế dịch, Nhà xuất bản Tôn giáo.

[10] Trong luận Đại thừa khởi tín trực giải, Đại sư Hám Sơn giải thích: Tâm, do bất giác mà hiện Năng kiến cùng Cảnh giới tướng. Cảnh giới tướng, chỉ cho hư không và tứ đại.

[11]Luận Đại thừa khởi tín, Bồ-tát Mã Minh.

[12]Kinh Đại Bửu Tích quyển VI, Phẩm Ưu-bà-di Hằng Hà Thượng, Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch.

[13] Người do ảo thuật biến ra, bóng trên tường .

[14] Tên khác mà thể đồng. Tùy ở nhân hay quả mà thấy có khác.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2021(Xem: 11452)
Lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, lễ kỷ niệm ngày đản sinh, thành đạo và Niết bàn của Đức Phật (Vesak), đã được tổ chức trọng thể tại Tòa Bạch Ốc ngày hôm nay. Để tôn vinh Đại lễ Vesak, một tuyên bố chính thức từ Tòa Bạch Ốc đã được Tổng thống Biden công bố: “Jill và tôi gửi lời chúc mừng nồng nhiệt nhất tới các Phật tử ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới khi họ kỷ niệm Vesak, một ngày tôn vinh sự đản sanh, giác ngộ. , và Niết bàn của Đức Phật. Nghi lễ thắp sáng một ngọn đèn, biểu tượng của ngày lễ đã được tổ chức hơn 2.500 năm này, nhắc nhở chúng ta về những lời dạy từ bi, khiêm tốn và vị tha của Phật giáo vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Vào ngày này, chúng tôi cũng tưởng nhớ nhiều đóng góp của các Phật tử ở Mỹ, những người đã làm giàu cho cộng đồng và đất nước của chúng tôi khi tất cả chúng ta cùng nhau hướng tới những ngày tươi sáng hơn ở phía trước. ”
27/05/2021(Xem: 9812)
Sáng nay, 20-5-2021, chén trà móc câu Thái Nguyên miên man hương vị quê nhà trở lại với mình sau hơn một năm dài vắng bóng. Lâu nay, vì đại dịch phải uống mãi trà Tàu, trà tứ xứ. Hương trà cũ lại phảng phất hồn quê khi cùng lúc có tin một bé gái người Việt thuộc thế thứ ba trên đất Mỹ đang ở cùng thành phố Sacramento với mình, vừa được giải “thi sĩ khôi nguyên” của tổ chức Thi sĩ Tuổi Trẻ Toàn quốc (National Youth Poet Laureate - NYPL) tại Hoa Kỳ: Đó là Alexandra Huynh (Huỳnh Thụy An), 18 tuổi, vừa đoạt giải.
27/05/2021(Xem: 7348)
THÔNG TƯ AN CƯ KIẾT HẠ & KHOÁ TU HỌC PHẬT PHÁP ÂU CHÂU KỲ 32 - 2021 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính gởi chư tôn Hoà Thượng, chư Thượng Toạ, quý Ni Trưởng, Ni Sư, chư Đại Đức Tăng Ni Kính gởi quý Thiện Hữu Tri Thức Nam Nữ Phật Tử Kính thưa quý vị, Ngày Tưởng Niệm Đại Lễ Phật Đản PL 2565 - 2021 trọng đại linh thiêng của Phật Giáo, vẫn còn tiếp diễn đó đây trên trú xứ Âu Châu nói riêng và khắp năm châu nói chung. Đây cũng là bắt đầu bước vào 3 tháng thời gian đặc biệt của hàng Trưởng Tử Như Lai. Là 3 tháng thúc liễm thân tâm, 3 tháng huân bồi công đức, 3 tháng tăng trưởng giới định, 3 tháng thời gian huệ pháp viên dung, là nhân duyên chuyển phàm thành Thánh. Do vậy, sau ngày Rằm tháng tư âm lịch chư Tăng Ni hành tác pháp đối thú an cư kiết hạ từ 16/4 âm lịch đến 16/7 âm lịch, gọi là 3 tháng an cư kiết hạ và chư Tăng Ni giới hạn đi ra ngoài, ngoại trừ có những Phật sự quan trọng cần thiết, hoặc cha mẹ lâm bệnh nặng; hoặc thân quyến qua đời, nhưng khi ra khỏi đạ
26/05/2021(Xem: 4727)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5035)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4527)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3751)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7597)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4749)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6192)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]