Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu chuyện đi đứng

10/03/201418:31(Xem: 8809)
Câu chuyện đi đứng
minh_hoa_quang_duc (246)

CÂU CHUYỆN ĐI ĐỨNG


Chân Hiền Tâm

Chuyển động biểu kiến của mặt trời
Mặt trời lên ở phương Đông, giữa trưa ở tại đỉnh đầu rồi ngả dần về phương Tây và mất bóng. Ngày nào cũng theo chu trình đó mà đi. 21/3 mỗi năm, mặt trời ở thiên đỉnh xích đạo. Những tia sáng mặt trời chiếu vuông góc với tiếp tuyến bề mặt trái đất ở xích đạo. Sau đó nó di chuyển dần lên chí tuyến Bắc và ở thiên đỉnh chí tuyến Bắc vào ngày 22/6.
Ba tháng sau nó lại ở thiên đỉnh xích đạo lần hai. Rồi sau đó chuyển dần về chí tuyến Nam và lên thiên đỉnh ở chí tuyến Nam vào ngày 22/12. Và cứ thế tiếp tục chu trình của mình…Khi chuyển động quanh mặt trời, trục của trái đất luôn nghiêng với mặt phẳng quỹ đạo một góc 66033’, thành khi đứng ở bề mặt trái đất, ta thấy mặt trời dịch chuyển từ xích đạo lên chí tuyến rồi trở về lại xích đạo v.v… mà thật không hề có sự dịch chuyển. Người ta gọi những chuyển động thấy bằng mắt mà không thực có đó là chuyển động biểu kiến[1].

Sự dịch chuyển của các hình toán học
Không có một chuyển động nào ở đó. Chỉ là những tấm hình rất phẳng. Trên đó, một mặt phẳng tròn màu xanh được trang điểm bằng những hình thoi màu đỏ nối tiếp nhau, xếp thành hình vòng tròn, nhỏ ở trung tâm và lớn dần lên ở bìa phẳng hình tròn. Một hình chữ nhật màu vàng được trang điểm bằng những hình oval xanh, lớn bé không đều, được xếp dọc tạo thành những hình trụ xoay vòng. Rồi những vòng hoa văn như bánh xe được đặt sát nhau v.v…[2]. Chúng được xắp xếp theo một cách mà khi nhìn vào, tất cả như đang dịch chuyển.
Mọi thứ đang chuyển dịch dù bản thân chúng không hề chuyển dịch. Chỉ nhờ sự kết hợp khéo léo giữa các hình ảnh toán học, màu sắc và cách nhìn của người xem mà thấy chúng dường như đang chuyển dịch không ngừng. Tôi in những hình ảnh đó ra giấy. Trên một mảnh giấy bóng cũng có mà in thành hình trắng đen cũng có. Tất cả những dịch chuyển đều biến mất. Chẳng còn gì ngoài những hình ảnh phẳng lỳ, không có chuyển động. Đó không phải là chuyện lạ. Bởi nhân duyên tạo hình thay đổi thì cái quả nhận được cũng thay đổi theo. Trong thế giới này, có bao nhiêu chuyển động được nhìn thấy bằng mắt mà thật không hề có chuyển động như những gì mình đã từng thấy?

“Không đến cũng không đi” của Trung Luận
Trong phẩm Phá đến đi, Bồ-tát Long Thọ nói kệ:

Đã đi không có đi
Chưa đi cũng không đi
Lìa đã đi chưa đi
Đang đi cũng không đi.

Diễn tả sự chuyển dịch trong ba thời một cách rất mộc mạc. Đã, là những gì thuộc về quá khứ. Chưa, là chuyện chưa tới ở vị lai. Đang, muốn nói đến việc xảy ra trong hiện tại. Cả ba thời đều không có đi. Tức không tìm thấy sự chuyển dịch trong cả ba thời.

Hì…
Chỗ động ắt có đi
Trong ấy có đang đi
Không đã đi chưa đi
Nhưng đang đi có đi.

Ít ai chịu chấp nhận những thứ đang hoạt động ì xèo trước mắt là không. Chuyển động trong quá khứ và vị lai có thể nói không, vì một thì chưa có và một thì không còn hiện diện. Nhưng hiện tại, không thể phủ nhận những gì đang diễn ra trước mắt. Đang đi nhất định có đi vì ở đó đang có sự chuyển động. Song Bồ-tát Long Thọ nói không. Ắt phải có vấn đề để bàn luận.

Làm sao nói đang đi
Mà có sự kiện đi
Nếu lìa sự kiện đi
Đang đi không thể được.
Nếu nói đang đi đi
Người ấy ắt có sai
Lìa đi có đang đi
Đang đi đi một mình.

Á à… Nói không đi, không phải là phá bỏ cái anh đang thấy là không. Những gì anh đang thấy không phải không, nhưng đó chỉ là cái thấy trong mộng. Vì là mộng, nên tuy thấy có đi có đến mà thực thì không đi không đến. Ngay khi mộng đã không. Tỉnh mộng đương nhiên hết. Nói không, là muốn nói những chuyển động, tuy thấy có đó mà chỉ như huyễn như hóa, không có chất thực, không có thực tánh.

Vì không pháp nào có thực tánh, nên hiện tại, vật lý không thể tìm thấy ở chuyển động một giá trị mang tính phổ quát. Trạng thái đứng yên hay chuyển động của một vật chỉ mang tính tương đối. Nó lệ thuộc vào vị trí của người quan sát. Người ngồi trên xe đạp sẽ thấy đường đi của đầu van là một chuyển động tròn đều quay quanh trục bánh xe. Người đứng bên vệ đường sẽ thấy đầu van chuyển động theo dạng hình cong lúc lên cao, lúc xuống thấp. Quỹ đạo của chuyển động mang tính tương đối. Một xe lửa đang chạy với vận tốc 40km/h. Người ngồi yên trên xe lửa sẽ có vận tốc là 0 đối với xe lửa, nhưng với người đang đứng ở vệ đường, người ngồi yên đó đang có vận tốc là 40km/giờ. Nghĩa là vận tốc trong chuyển động cũng mang tính tương đối[3].

Cho nên, muốn khảo sát một chuyển động không thể khảo sát chung chung mà phải dựa vào một thứ gọi là hệ quy chiếu. Nói theo ngôn ngữ nhà Phật là phải khảo sát trong một duyên nhất định nào đó. Tức chuyển động là pháp nhân duyên. Nhân duyên thì “Pháp do nhân duyên sinh/ Ta nói tức là không”[4]. Đó là lý do vì sao Bồ-tát Long Thọ nói đang đi cũng không đi. Là muốn nói mọi chuyển động tuy thấy có mà không có tự tánh.

Bài kệ, không nói đến hệ quy chiếu cũng không nói đến vận tốc, chỉ lý luận đơn giản rằng: Làm sao nói đang đi mà có đi? Nếu nói đang đi có đi, tức cho nó có tự tánh, thì nó phải đáp ứng đủ ba điều kiện là tự có, độc lập và thường trụ[5]. Nhưng mọi chuyển động không có thứ nào tự có hay độc lập. Vì đều là pháp nhân duyên. Đều phải nương vào pháp khác mới hiện tướng được. Như “đang đi”, phải nương vào sự kiện đi mới có “đang đi”. Không thể không có sự kiện đi mà nói có đang đi. “Đang đứng” cũng phải nương vào sự kiện đứng mới nói “đang đứng”. Không có sự kiện đứng mà nói có đang đứng, là trông gà hóa cuốc. Vì thế, kệ nói “Nếu lìa sự kiện đi/ Đang đi không thể được”. Không có “sự kiện” đi thì “đang đi” không thể thành lập.

Như vậy, điều kiện để một chuyển động được cho là có, là nó phải đang xảy ra. “Đang đi”. Nhưng cái đang xảy ra đó là pháp nhân duyên, vì phải nương vào pháp khác mới hiện thành được. Pháp nhân duyên, “Ta nói tức là không”. Vật lý hiện đại đã nói đến cái gọi là không-thời gian liên thể. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận nói: “Thực tế, chúng tạo thành một cặp rất thống nhất mà sự vận động của chúng luôn bổ sung cho nhau”[6]. Thời gian và không gian bây giờ không còn được xem là những thực thể độc lập như thời Newton.

Hãy chú ý đến mấy từ “độc lập” mà các vị đã dùng để nói về thời gian. Nó giúp chúng ta hiểu câu “Đang đi đi một mình”. Nếu bạn thấy có một chuyển động đang diễn ra và bạn cho nó có, tức có thực tánh, là bạn đang dùng quan điểm của Newton để nhìn sự vật, cho thời gian và không gian là những thực thể độc lập với nhau và độc lập với vật.

Với cái nhìn của những nhà vật lý hiện đại, thời gian không còn “đi một mình”, nó không tách lìa không gian. Và vật là thứ quyết định sự co dãn của chúng[7]. Chúng là pháp nhân duyên. Pháp do nhân duyên sinh, “Ta nói tức là không”. Vật lý hiện đại đã nói đến tính không độc lập của thời gian và không gian (là mặt nhân duyên của pháp), cũng nói đến tính không phổ quát của chúng (là mặt không có thực tánh của pháp), nhưng chưa thể thấu được cái gọi là thực tánh của nhân duyên. Như hàng Nhị thừa chưa nhận ra được thực tướng của Tứ đế, Thập nhị nhân duyên hay Niết-bàn. Chưa thấu được cái lý tất cả đều từ tâm sinh, đều lấy tâm vô sinh làm gốc. Đó là thứ mà nền vật lý hiện đại chưa thể hình dung, nhưng Trung luận đã bàn đến.

Mặt trời thấy có chuyển dịch mà thật không có chuyển dịch, chỉ vì trái đất xoay quanh. Đến đi vốn không đến đi mà thấy có đến đi, chỉ vì tâm động. Tâm động nên cảnh vật thấy đổi dời mà thật không có đổi dời. Lục Tổ nói: “Không phải phướng động. Không phải gió động. Tâm nhân giả động”[8].

“Đi” lấy “Đi mà không đi” làm nghĩa
Văn Thù hỏi cô Am Đề Già[9]:
- Sinh lấy gì làm nghĩa?
Am Đề Già đáp:
- Sinh lấy “Sinh mà không sinh” làm nghĩa.
Văn Thù hỏi:
- Sinh lấy “Sinh mà không sinh” làm nghĩa là sao?
Am Đề Già thưa:
- Nếu hay rõ biết bốn duyên đất, nước, gió, lửa chưa từng tự được, tuy có chỗ hợp mà chỉ tùy chỗ ứng hợp. Đó là nghĩa sinh.

Hỏi tiếp:
- Tử lấy gì làm nghĩa?
- Tử lấy “Tử mà không tử” làm nghĩa.
- Là nghĩa lý gì?
- Nếu hay rõ biết bốn duyên đất, nước, gió, lửa chưa từng tự được, tuy có chỗ ly mà chỉ tùy chỗ ứng hợp. Đó là nghĩa tử.

Rồi Am Đề Già hỏi Văn Thù:
- Đã rõ biết cái lý sinh là không sinh thì sao vẫn cứ sinh tử xoay vần?
Văn Thù đáp:
- Vì lực chưa đủ.

“Lực chưa đủ” là căn nguyên khiến mọi cái thấy trở thành hạn cuộc, không còn nhìn pháp đúng như chính nó. Cũng khiến cho kẻ dù đã thấu được cái lý “sinh mà không sinh”, “tử mà không tử”, vẫn chưa thoát được cửa ải sinh tử. Gốc là tâm, nên đất, nước, gió, lửa chưa từng tự được. Nói “tự” đó, là không do cái khác mà được. Nhưng có thứ nào không từ tâm sinh[10]. “Tâm sinh thì tất cả pháp sinh. Tâm diệt thì tất cả pháp diệt”[11]. Đâu có chủ thể để tự quyết cho thân phận mình mà nói tự được. Chưa từng tự được!. Sinh tử như thế thì đi đứng cũng không khác. Đều cùng một thể mà ra. “Đi” lấy “Đi mà không đi”làm nghĩa. “Đứng” lấy “Đứng mà không đứng” làm nghĩa. Hiểu không? Đừng nói là lực chưa đủ…

Hóa nhân thì không có đến đi
Thời Phật còn tại thế, có tín nữ tên Hằng Hà Thượng. Người ta gọi cô là Ưu-bà-di Hằng Hà Thượng[12]. Một lần, cô đến vườn Cấp Cô Độc trong thành Xá-vệ gặp Phật. Phật hỏi:
- Cô từ đâu đến?
Hằng Hà Thượng thưa:
- Bạch Thế Tôn! Nếu hỏi hóa nhân[13] “ngươi từ đâu đến” thì phải đáp ra sao?
Phật trả lời:
- Là hóa nhân thì không có đến đi cũng không có sinh diệt, làm sao nói đến đi?
Hằng Hà Thượng thưa:
- Bạch Thế Tôn! Các pháp không phải đều là hóa nhân sao?
Phật đáp:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời tín nữ đã nói.

Không có đến đi vì tất cả đều là hóa nhân. Đều là sở hiện của tự tâm, như ngủ rồi mộng. Trong mộng thấy có đến đi mà thật là không có đến đi. Cho nên, Hằng Hà Thượng trả lời:
- Nếu các pháp đều như hóa nhân, sao Thế Tôn còn hỏi con từ đâu đến?
- Người huyễn hóa thì không đến đường ác, không sinh lên trời, không chứng Niết-bàn. Hằng Hà Thượng, cô cũng vậy sao?
- Bạch Thế Tôn! Nếu con thấy thân khác với huyễn hóa mới có thể nói đến đường ác, sinh đường thiện và chứng Niết-bàn. Con không thấy thân khác huyễn hóa, sao lại nói đến đường ác và chứng Niết-bàn? Bạch Thế Tôn, như tánh Niết-bàn, rốt ráo không thể sinh thiện ác đạo cùng bát Niết-bàn. Con thấy thân con cũng như vậy.

À, té ra… thấy có tới lui dịch chuyển như hiện nay là tại chưa sống được với cái thật, chưa nhận ra được cái gọi là thân huyễn hóa, tâm vọng tưởng. Cảnh trong mộng vẫn còn thật khi người ngủ chưa hết mơ. Bởi còn chấp sắc thân và tâm vọng động này là thật nên chưa thể thoát được cái nhìn rơi vào nhị biên phân biệt. Nhị biên không trừ thì chưa thể nhận ra sự huyễn hóa của thân tâm. Cứ tưởng lầm những hình ảnh toán học kia thật có chuyển dịch mà không thấy mặt nhân duyên kết hợp của chúng. Lìa nhân duyên ấy ra, chuyển dịch hoàn không. Vì tánh nó vốn không.

- Không phải cô đang hướng đến Niết-bàn giới đó sao?
- Bạch Thế Tôn! Nếu đem lời hỏi này hỏi chỗ vô sinh thì thế nào?
- Vô sinh là Niết-bàn.
- Bạch Thế Tôn! Các pháp không phải đều đồng với Niết-bàn sao?
- Đúng vậy! Đúng vậy!

Lần thứ hai, Đức Phật xác nhận lời nói của Hằng Hà Thượng là đúng. Các pháp đều đồng với Niết-bàn. Bởi tánh các pháp chính là tâm vô sinh. Tâm vô sinh và Niết-bàn không hai không khác. Nhập Niết-bàn, chính là trở về thể nhập lại thể tánh vô sinh của chính mình, cũng là cội nguồn từ đó phát sinh vạn pháp.

Cái gọi vô sinh đó, chính là Tri kiến Phật nói trong Pháp hoa, là Tướng không nói trong Bát-nhã, là Bát bất của Trung luận, là Chân như của luận Đại thừa khởi tín v.v…[14] Tất cả pháp đều đồng cái cội gốc ấy, đều đang ở trong Niết-bàn.

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đã đồng với Niết-bàn, sao còn hỏi con “Cô không đang thú hướng niết bàn giới sao?”.

Niết-bàn không lìa tâm mà có thì sao còn hỏi con chuyện thú hướng. Ngay nơi cái tâm vọng động phân biệt này mà dừng đi những chấp trước phân biệt thì Niết-bàn vô trụ xứ liền đó. Niết -bàn này không đồng với Niết-bàn của Nhị thừa, thấy có sinh tử để ly, Niết-bàn để vào. Niết-bàn này là tự thể vô sinh của tất cả pháp. Nhập Niết-bàn chính là sống lại được với tánh thể vô sinh ấy.
Sống được với tánh thể vô sinh ấy thì thấy tất cả những gì có tướng đều là hư vọng. Tuy thấy đến đi mà thật không có đến đi. Tuy thấy chuyển động mà thật không có chuyển động. Nói theo Trung luận thì “Không đi đến cũng không phải không đi đến”. “Không đi đến” vì tự thể vốn không. “Không phải không đi đến” vì mê tình chưa hết, đủ duyên liền hiện, không thể nói không.
________________________________

[1]http://diavinhlong.forumvi.com/t267-topic.

[2]http://thinhupro.wap.sh/anhao/anhao

[3] http:// thuvienvatly.com

[4] Nói trong phẩm Phá Tứ đế. Vì sao nói “Pháp do nhân duyên, là không” thì trong phẩm Phá nhân duyên, Luận chủ đã dùng lý luận cho thấy nhân duyên sinh là không, là vô sinh. Đây, dùng phần hệ quả đó mà nói.

[5] Quy ước khi nói về pháp có tự tánh.

[6] Giáo sư Trịnh Xuân Thuận, Giai điệu bí ẩn và con người đã tạo ra vũ trụ, Phạm Văn Thiều dịch, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.

[7] Giai điệu bí ẩn và con người đã tạo ra vũ trụ, tr.86 ghi: “Thời gian đã mất đi tính phổ quát của nó. Cũng như không gian, thời gian trở nên đàn hồi. Nó dài ra hay co ngắn lại tùy thuộc vào chuyển động của người đo nó”.

[8] Pháp bảo đàn kinh, phẩm Tự Thuật.

[9] Mẫu truyện này được lấy từ kinh Lăng nghiêm tông thông, Thiền sư Nhẫn Tế dịch, Nhà xuất bản Tôn giáo.

[10] Trong luận Đại thừa khởi tín trực giải, Đại sư Hám Sơn giải thích: Tâm, do bất giác mà hiện Năng kiến cùng Cảnh giới tướng. Cảnh giới tướng, chỉ cho hư không và tứ đại.

[11]Luận Đại thừa khởi tín, Bồ-tát Mã Minh.

[12]Kinh Đại Bửu Tích quyển VI, Phẩm Ưu-bà-di Hằng Hà Thượng, Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch.

[13] Người do ảo thuật biến ra, bóng trên tường .

[14] Tên khác mà thể đồng. Tùy ở nhân hay quả mà thấy có khác.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/10/2014(Xem: 10344)
Vào ngày 21 tháng Chín, đông đảo công dân từ khắp nơi trên nước Mỹ, và từ nhiều vùng đất khác, sẽ được hội tụ về thành phố New York tham gia vào cuộc diễu hành về sự biến đổi Khí hậu (The People’s Climate March), đây được cho là cuộc diễu hành vì khí hậu lớn nhất trong lịch sử. Cơ hội trực tiếp cho cuộc diễu hành là sự tập hợp của các nhà lãnh đạo thế giới tại Liên Hiệp Quốc dành cho một hội nghị thượng đỉnh về sự khủng hoảng khí hậu được triệu tập bởi Tổng thư ký LHQ. Mục đích của cuộc diễu hành là báo cho các nhà lãnh đạo toàn cầu biết rằng thời gian để từ chối và trì hoãn đã qua, chúng ta phải hành động ngay nếu chúng ta muốn bảo vệ thế giới chống lại sự tàn phá về sự biến đổi khí hậu.
12/10/2014(Xem: 11221)
Các nhà văn và nhà báo đều có tầm ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Vả lại, dù cho đời người có ngắn ngủi đi nữa thì những gì đã viết cũng sẽ còn lưu lại hàng nhiều thế kỷ. Trong lãnh vực Phật giáo thì những lời giáo huấn của Đức Phật, của ngài Tịch Thiên và của những vị đại sư khác nhờ được ghi chép lại thành văn bản nên đã được lưu truyền qua những thời gian lâu dài để nói lên tình thương yêu, lòng từ bi và những hành vi vị tha phát xuất từ tinh thần Giác ngộ mà cho đến tận ngày nay vẫn còn giúp chúng ta cơ duyên được học hỏi.
11/10/2014(Xem: 8547)
18 giờ tối ngày 9/10/2014, đông đảo Phật tử, doanh nhân, sinh viên và các bạn yêu đọc sách đã được học hỏi rất nhiều từ thiền sư Minh Niệm, tác giả cuốn sách “Hiểu về trái tim” tại nhà sách Thái Hà ( số 119, C5, phố Tô Hiệu, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Cá nhân tôi cũng vậy. Tôi học được rất rất nhiều. Thầy Minh Niệm đã chia sẻ nhiều trải nghiệm sâu sắc, phong phú của chính thầy đến với những ai may mắn có mặt để giao lưu, để lắng nghe. Đối với rất nhiều người, đó là những điều mới mẻ và hữu ích.
10/10/2014(Xem: 8190)
Vào năm 2004 lực lượng Hồi giáo cực đoan Taliban chiếm toàn bộ khu vực thung lũng Swat, nơi em đang sống bình yên với bố mẹ và hai người em, hằng ngày cắp sách đến trường. Tiếp đó, từ năm 2007, Taliban cấm phụ nữ không nghe nhạc và hạn chế họ lui tới nhiều cơ sở công cộng. Đến 15.01.2009 thì Taliban lại ban hành một sắc lệnh mới cấm các em học sinh nữ đi học, phá hủy khoảng 150 trường học. Thời gian này đài BBC phổ biến một tập nhật ký của một cô gái Pakistan 11 tuổi có tên là Gul Makai bằng tiếng Urdu trên trang Blog của đài BBC. Sau này người ta mới biết được Gul Makai là bút hiệu của Malala Yousafzai.
08/10/2014(Xem: 10087)
Ông Dan Stevenson không phải là một Phật Tử, cũng không theo một tôn giáo có tổ chức nào cả. Ông là một người dân cư ngụ trên đại lộ số 11 ở khu Eastlake của Oakland (California.) Vào năm 2009, khi ông đi vào trong cửa tiệm Ace chuyên bán vật dụng sắt thép dùng trong nhà, ông chợt hứng khởi phát tâm và đã bỏ tiền mua một pho tượng đức Phật bằng đá cao 2 feet (khoảng tương đương với hơn 60 cm). Sau đó ông mang về và gắn tượng Phật này vào một góc đường trong khu gia cư giữa đại lộ số 11 và con đường số 19.
06/10/2014(Xem: 9284)
“The History of Sampan” “Chiếc thuyền này thường xuyên được neo tại đây vốn là chiếc thuyền của người Việt Nam di tản, đã dạt vào bờ này với 167 người lớn và trẻ em vào tháng 5-1980 …May thay một thời kỳ non trẻ đã trôi qua, nhiều kinh nghiệm quý báu đã được tổng kết, người ta đã biết đắn đo hơn khi nói về một thời đã qua. Ngày nay Việt Nam là một cộng đồng hòa hợp tốt đẹp hơn xưa, thậm chí còn là chỗ “thích nghi” cho một số người nước ngoài, là “điểm đến” cho doanh nhân và du khách. Có những điều tưởng như giản đơn nhưng con người cần cả một thế hệ mới hiểu hết. Bài học của hòa hợp dân tộc và lòng cởi mở nhân ái ngày xưa của vua Trần dường như bị quên mất sau nhiều thời kỳ chiến tranh và chia cắt khốc liệt, nay cần phải được ôn lại…
29/09/2014(Xem: 7782)
Không học Phật pháp thì không biết đường nào để giải thoát, nhưng cái thấy trong lúc chứng ngộ – tuyệt nhiên không giống với những gì ta đã học. Tấm bản đồ không phải con đường, càng không phải chỗ mình muốn đến. Nhưng bỏ mất nó thì có mà chết, mà ôm cứng lấy nó cũng chết. Muốn tu học ngon lành, hãy hỏi mấy em hướng đạo sinh cách dùng bản đồ.
26/09/2014(Xem: 12401)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền não là tâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận. Và cũng từ đó ánh sáng vô tận khởi hiện. Ánh sáng vô tận trong tâm ta không thể khởi hiện, vì tâm ta chứa đầy phiền não và phiền não đã tạo thành những chủng tử phân biệt và kỳ thị vận hành liên tục ở trong tâm ta, khiến cho mạch sống vô tận bị tắt nghẽn.
25/09/2014(Xem: 8787)
Thật may mắn khi tôi có duyên lành tham gia khóa thiền 2 ngày cuối tuần 20 và 21 tháng 9 tại Sóc Sơn với sự hướng dẫn trực tiếp của Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng – người đã có trải nghiệm về thiền hơn 10 năm nay và đã hướng dẫn nhiều khóa thiền rất có hiệu quả. Hai ngày của khóa thiền mang tên “Tôi làm việc tôi hạnh phúc” thực sự thay đổi tôi mà tôi không thể không viết ra đây.
25/09/2014(Xem: 13271)
Thỉnh thoảng tôi đi về quê, để được nằm một mình giữa bãi cát trắng xoá với trăng mênh mông và nghe sóng vỗ, để cảm nhận những gì sâu sắc từ cuộc sống cô tịch của con người. Trong khoảnh khắc ấy, tôi đã nghe từng con sóng từ biển cả thì thầm và ước mơ, rồi đua chen nhau chạy vào bờ để kiếm tìm vùng đất hứa
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]