Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tin nhân quả, tạo phước đức....

12/12/201317:30(Xem: 8016)
Tin nhân quả, tạo phước đức....
TVQD_ Tuong Dong Phat Thich Ca

Tin nhân quả, tạo phước đức, sống chân thường


Ở đời ai cũng đi tìm kiếm hạnh phúc. Đời người là cơ hội lớn nhất để có hạnh phúc.

Phật giáo là những phương pháp, những con đường để con người thực hiện hạnh phúc; từ hạnh phúc nhỏ, có được có mất, đến hạnh phúc tối thượng, không được không mất. Khổ đau sở dĩ có vì con người không biết sống, tìm kiếm sai, mục đích sai, định hướng sai.

1. Tin nhân quả:

Hạnh phúc không do may rủi, ngẫu nhiên. Người nào nói hạnh phúc tôi đang có là do may rủi ngẫu nhiên thì đó là người theo chủ nghĩa hư vô, đoạn kiến. Đoạn kiến vì cho là có quả mà không có nhân. Còn cho là ông Trời ưu đãi tôi, ban cho tôi nhiều hạnh phúc thì đó là chủ nghĩa hằng hữu, thường kiến. Số tôi may mà. Thường kiến vì cho mọi sự đã được xếp đặt rồi, không do nhân quả nào cả. Kết quả hạnh phúc đang có phải có do những nguyên nhân của hạnh phúc mà tôi đã tạo được. Hành động làm ra, tạo ra chính là nhân, và nhân phải sinh ra quả. Hành động (karma, nghiệp) tốt thì ra quả tốt, hành động xấu thì ra quả xấu.

Tin nhân quả và hành động theo luật nhân quả là tự điều khiển đời mình. Muốn quả nào thì gieo nhân đó. Muốn có quả nào thì làm nhân đó. Muốn người khác tin mình mà hay nói dối thì quả đó không thể có được. Muốn không ai làm hại mình mà hay làm hại người khác thì chuyện đó không thể có được, Sự lựa chọn nhân tốt hay nhân xấu tạo nên “số phận” của chúng ta. Khi lựa chọn nhân quả là chúng ta đã tự do. Như thế chúng ta đã thoát khỏi nhân quả, theo ý nghĩa là chúng ta đã thoát khỏi những nhân quả xấu, những tai họa tương lai cho chúng ta. Từ đây chúng ta tự do, không còn “bị”, “chịu”, “phải”… Với luật nhân quả, từ đây chúng ta chỉ có lời, không bị lỗ, trong cuộc đời nhiều rối rắm này.

Tin nhân quả là tin yêu đời sống, vì sẽ không có quả xấu nào xảy đến với ta nếu chúng ta không có nhân xấu ấy. Tin yêu đời sống vì sự công bằng của đời sống chính là luật nhân quả, chẳng ai có thể ăn gian ai, chẳng ai có thể gian lận được với luật nhân quả. Tin nhân quả thì không có hối hận, đổ thừa, trách móc. Ý nghĩa của cuộc đời là dám nhận trách nhiệm với cuộc đời mình. Từ đó mới có tiến bộ, đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn. Với luật nhân quả, chúng ta có thể điều khiển, chọn lựa cuộc đời mình một cách tự do. Đó là hạnh phúc.

2. Tạo phước đức:

Tạo phước đức là làm một cái gì đó có lợi ích cho người khác. Theo đúng luật nhân quả, làm lợi ích cho người khác là một nhân, thì nhân đó sẽ thành quả, tức là mình cũng sẽ được lại một lợi ích nào đó. Suốt ngày luôn luôn có thể tạo phước đức, làm cho người khác và môi trường chung quanh một chút gì đó đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn. Buổi sáng quét ngoài hàng rào, vứt vào trong một cục đá có thể làm té người đi đường. Lượm một giấy rác bỏ vào thùng rác công cộng. Săn sóc một chậu hoa trong vườn cho người khác vui thích khi đến nhà…Nhưng làm lợi ích cho người khác và môi trường chung quanh không chỉ vì lợi ích để dành về sau cho mình. Bên dưới hành động đó còn có động cơ là lòng từ bi. Người ta làm phước đức do lòng từ bi. Khi có lòng từ bi hiện diện thì khi ấy có hạnh phúc.

Không chờ đợi kết quả ắt phải đến, ngay khi làm lợi ích cho người khác chúng ta liền có niềm vui, hạnh phúc vì lúc đó chúng ta có từ bi. Tạo phước đức là sự thể hiện của lòng từ bi thành hành động. Nếu làm lợi ích cho đời với một tâm thức có trí huệ, nghĩa là không tham, không sân, không si, không bám chấp, thì càng làm lợi ích chúng ta càng giải thoát, càng tự do. Lúc ấy phước đức được gọi là công đức vì gắn với trí huệ và cũng gắn với từ bi. 
Làm việc phước đức có thể gắn liền với thực hành trí huệ. Kinh Kim Cương nói: “Bố thí (phước đức) mà không trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (trí huệ)”. Khi tâm không trụ vào các tướng, tâm ấy bao la, do đó phước đức cũng trở nên bao la. Kinh nói tiếp: “Nếu Bồ-tát không trụ tướng mà bố thí thì phước đức ấy không thể tính lường”. Phước đức được gắn liền với trí huệ thì đây là con đường Bồ-tát, Bồ-tát hạnh. Nơi Bồ-tát hạnh, trí huệ và từ bi hợp nhất.

3. Sống chân thường 

Phước đức nào được hưởng thì cũng có ngày hết. Quả tốt bao nhiêu cũng theo luật vô thường có sanh thì có diệt rồi cũng không còn. Khi ý thức điều đó, chúng ta nhắm đến một hạnh phúc cao hơn, bền vững hơn, thường trực hơn. Hạnh phúc ấy nói theo kinh điển Pali là “hạnh phúc tối thượng”, “vĩnh cửu”, “bất hoại”, “bất diệt”, “không tùy thuộc thế gian”…Tất cả mọi con đường, mọi pháp môn, mọi tông phái Phật giáo đều để đưa đến Quả này. 
Tất cả đều nói rằng Quả hạnh phúc tối thượng này nằm trong chính thân tâm mỗi người. Thực hành là khám phá ra điều đó. Cho nên hạnh phúc này là bình đẳng tuyệt đối. Không phải tranh giành nhau, không phải hơn kém nhau, không phải nơi đây mới có nơi kia không có, chỗ này ít hơn chỗ kia nhiều hơn. Không tùy theo thế gian là như vậy.

Sống chân thường là:

Dầu sống một trăm năm
Không thấy cái Bất diệt
Không bằng chỉ một ngày
Thấy được cái Bất tử

Dầu sống một trăm năm
Không thấy pháp tối thượng
Không bằng chỉ một ngày
Thấy được pháp tối thượng 

(Kinh Pháp Cú, phẩm Ngàn)

Kinh điển Sanskrit gọi “pháp tối thượng”, “cái bất tử” này là “pháp tánh” hay “thật tướng của tất cả các pháp”. Đã gọi là thật tướng của tất cả các pháp mà các pháp thì chỗ nào cũng có, cho nên nơi bất cứ pháp nào cũng có thể gặp và sống cái thật tướng này. Nơi bất cứ cái gì của đời sống, nơi không gian nào thời gian nào cũng có thể thấy ra và sống cái thật tướng này. Nhờ cái thật tướng của tất cả các pháp này, đời sống mới tìm thấy ý nghĩa đích thật của nó. 
Nếu không có ý nghĩa đó, mà kinh điển gọi là Đệ nhất nghĩa đế, đời sống chỉ là vô thường, sanh trụ dị diệt, khổ đau và trôi về hướng hư vô. Cho nên phải nói rằng đạo Phật cứu đời sống, gồm ta, người và thế giới, ra khỏi hoại diệt hư vô bằng pháp tối thượng, cái bất tử, bằng thật tướng và thật nghĩa của tất cả các pháp. Sống được cái pháp tối thượng, cái bất tử, cái thật tướng của tất cả các pháp này gọi là sống chân thường. Đời sống chân thường này ở khắp tất cả.

Ở trên là ba con đường đi đến hạnh phúc. Ba con đường đó không riêng rẽ mà thật ra không lìa nhau, có thể hợp nhất thành một con đường lớn tiến đến mục đích tối hậu của đời người. Chúng ta có thể cùng một lúc đi cả ba con đường, vì cả ba cùng là một, trong cái này có cái kia. Cụ thể là người ta có thể vừa sống chân thường, vừa làm theo luật nhân quả, và vừa làm lợi ích cho những người khác.

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 190

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/05/2021(Xem: 6551)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5951)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12955)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5764)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5535)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5748)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4791)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4795)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 5021)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4884)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]