Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đi Chùa những bước đầu của hành trình tâm linh

10/12/201307:48(Xem: 9466)
Đi Chùa những bước đầu của hành trình tâm linh
di_chua_1
ĐI CHÙA

Những Bước Đầu của
Hành Trình Tâm Linh(1)

Thiện Ý

Đây là một đề tài khá phức tạp và dễ bị hiểu lầm. Có câu nói: ‘Hành trình ngàn dặm khởi đầu bằng một bước đi (a journey of a thousand miles begins with a single step). Vì vậy, vấn đề cần phải nêu ra là khi nào và từ đâu chúng ta bắt đầu cất bước trên con đường tâm linh? Đa phần chúng ta đi tìm con đường tâm linh cho mình khá trễ. Trễ là do mình không cảm thấy nhu cầu cần thiết cho tâm linh lúc trẻ vì quan niệm rằng chùa chiền không thể nào giải quyết được những ưu phiền, đau khổ trong cuộc sống của tuổi trẻ. Chùa là dành cho những người lớn tuổi, xế chiều. Họ cần đến chùa là để vun bồi phước đức như làm việc thiện, bố thí, công quả .v..v… để ‘sau này’ được hưởng phước tốt lành. 

Chùa, tu viện, đạo tràng là chổ mà những người bắt đầu cảm thấy cần để tu tâm, dưỡng tánh tìm đến. Những ngỡ ngàng ban đầu khi bước vào một nơi trang nghiêm, thanh tịnh như vậy, lòng thành kính của chúng ta thật là thiết tha. Mình cảm nhận được sự thanh thản, an lạc thực sự sau mỗi lần viếng thăm. Thế là mình quyết định ‘đi chùa’ thường xuyên hơn. Nhưng, muốn tu tâm, dưỡng tánh thì bắt đầu từ đâu? Thường thì chúng ta tham dự những buổi tụng kinh, hay làm công quả, tùy theo những sinh hoạt đã sẵn có ở ngôi chùa đó. Thỉnh thoảng, có gặp quý Thầy, quý Cô nhưng còn ngại ngùng chưa dám hỏi gì nhiều, chỉ hỏi chung chung giờ giấc sinh hoạt của chùa. Khi đã bắt đầu quen thuộc với những sinh hoạt thường kỳ, mình mới bắt đầu tiếp cận nhiều với quý Thầy, Cô trong một phong thái tương đối bớt hình thức hơn.

Từ việc tham gia những sinh hoạt thường kỳ đến việc làm công quả cho chùa trong những ngày lễ lạc là một chuyển tiếp rất bình thường. Nhưng việc này có dính dáng gì đến hành trình tu tập tâm linh? Dạ thưa, có liên hệ rất gần! Bằng chứng là sau nhiều lần công quả, chúng ta thường được nhiều người khen là làm giúp chùa nhiều vậy thì phước đức sẽ nhiều lắm, đó nhe! Thế là ta hăng hái hơn lên để tích lũy thêm công đức dù không hiểu rõ là làm vậy có đúng là mình đang ‘tu’ hay không? Nhưng tin rằng có nhiều phước đức là tốt lắm rồi!

Khi bước chân vào một nơi trang nghiêm thanh tịnh như chùa, tu viện, hay đạo tràng mình có một khái niệm rằng tất cả mọi người ở đó chắc đều hiền lành, dễ thương. Thoạt đầu, ai cũng đối xử với mình rất tốt và lịch sự. Do vậy, mình có cảm tưởng rằng: “Trong đây ai cũng đều tu hành nên họ tốt vậy đó!” Cho đến khi sau vài tháng hay hơn một năm đi chùa, chúng ta bỗng nhiên phát hiện một khía cạnh khác của chùa. Trong khi làm công quả có những lúc ‘va chạm’ với những người mà mình cho là tốt, nên sự suy nghĩ lúc ban đầu đã bắt đầu lung lay khiến cho sự hăng hái thuở trước cũng dần dần giảm nhiệt! Không phải mình làm biếng hay chán mà vì lòng mình đã bắt đầu có sự bối rối, phân vân: không biết mình có hiểu sai, làm sai, hay thấy sai về việc đến chùa tu tập hay không? Tại sao chùa mà vẫn còn những sự hục hặc, tranh cạnh bên trong như vậy? 

Câu hỏi được đặt ra là: Nếu phức tạp như thế, vậy mình có cần phải đến chùa để tu tập cho tâm linh không? Nếu trả lời là không cần. Vậy thì ông bà, cha mẹ mình và các Phật tử của thế hệ trước đâu cần đổ công sức để lập chùa. Ai cũng có thể ở nhà tu tập là đủ rồi! Cũng vậy, nếu ai cũng biết cách tự học ở nhà thế thì cần gì phải xây trường học mới học được. Lập luận này không đứng vững chút nào! Chùa hay tự viện là nơi huấn luyện cho chúng ta hiểu thấu giáo nghĩa vô thượng của Phật dạy và đem những giáo pháp này ứng dụng cho tâm linh của mình để tìm thấy hạnh phúc và an lạc trong đời sống. 

‘Nhất nhật Phật tại tiền, tam niên Phật thăng thiên,’ nghĩa là ngày đầu đến chùa thấy tu theo Phật sao dễ quá! Nhưng sau 3 năm thì thấy Phật cũng mất luôn, chứ chưa nói là tu theo Phật! Do vậy mà cái sơ tâm – tâm tốt ban đầu, cần phải được giữ gìn cẩn thận vì nó chính là vốn liếng, là nền móng căn bản để mình tăng trưởng tâm linh. Nếu không, khi sơ tâm bị sứt mẻ trầm trọng sẽ khiến mình quay lưng lại với con đường tu tập, hoặc có khi trở thành kẻ Nhất-xiển-đề, không còn biết sợ tội phước, nhân quả là gì! Đây không phải là một hình thức hù dọa khiến chúng ta sợ cảnh ‘đi chùa.’ Nhưng vì giá trị vô giá của tâm linh chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, thận trọng đừng để đánh mất viên ngọc quý đó! Chính vì vậy mà trong kinh Pháp Hoa có dạy rằng: ‘Hành giả khi tu tập nên (để tâm) ở trong nhà Như Lai, mặc áo Như lai, và ngồi tòa Như lai. Nhà Như lai là tâm từ bi, áo là hạnh nhẫn nhục, tòa là tâm xả bỏ.’ Một hình thức mặc áo giáp để phòng hộ những chướng ngại, phiền não trên hành trình tu tập cho tâm linh. 

Tất nhiên nếu mình chưa có đủ ‘nội lực’ để khoát áo nhẫn nhục, xả bỏ thì mình nên học pháp xa lìa (viễn ly) mà Phật đã dạy khi gặp những ác hành, phiền não. Tức là, không nên thân cận những nơi mình cảm thấy dễ sinh ác pháp, hay sân hận như nhà bếp, phòng ăn… và tìm đến những chổ nào khiến an lạc, hạnh phúc phát sinh như chánh điện, thiền đường, lớp học giáo lý v.v... Không phải chúng tôi muốn ám chỉ nhà bếp, phòng ăn là những chỗ xấu. Nhưng vì là nơi để tu ‘phước’ nhiều hơn tu ‘huệ’ và cũng là nơi điều kiện ‘đời’ dễ phát sinh nên khiến dễ dàng lây lan những pháp xấu. Trong các thiền viện hay đạo tràng lớn, các Thầy, cô được chia nhóm phụ trách hành đường, nghĩa là lo nấu ăn, dọn ăn, và rửa ráy cho tất cả các Tăng, Ni trong chùa, không để cho người cư sĩ phụ trách. Theo nội quy của Thiền môn, sau giờ ăn tất cả mọi người đều phải tập họp lên thiền đường, hay chính điện để hành trì tu tập, không ai được phép bén mảng ở lại nhà bếp hay phòng ăn. 

Như chúng ta đã biết chùa chiền là nơi để trấn áp, trừ diệt ma quân, không phải là nơi để chúng ma sinh trưởng. Thế nên, có điều luật như vậy không phải để ngăn cản người cư sĩ làm phước mà vì muốn giúp họ phải ‘phước, huệ song tu,’ phòng ngừa những ma pháp phát sinh trên bước đường tu học, đặc biệt là bên trong nhà chùa. Trong kinh “Ưu Bà Tắc Giới” giải thích rõ là người phụ nữ nào đã quy y Tam bảo và thọ nhận 5 giới gọi là Ưu bà di, còn người nam gọi là Ưu bà tắc. Ưu bà di tiếng Phạn là Upasika, còn Ưu bà tắc là Upasaka, nghĩa là Cận sự nữ và Cận sự nam. Cận sự là gần gũi để hộ trì và thực hành giáo pháp Phật dạy. Như vậy, việc thân cận người hiền hay bậc Thiện tri thức và xa lìa những ma pháp, và ác hữu là đúng theo chánh pháp.

Những ‘va chạm’ ở chùa chỉ là thử thách xem mình đã học và làm được gì sau vài tháng đi chùa. Đa phần có sự va chạm này là vì khi vào chùa chúng ta cũng mang theo những hệ lụy, phiền não, kinh nghiệm ‘ngoài đời’ của mình theo. Nên mặc dù thân ở chùa nhưng tâm vẫn còn rất ‘đời’. Chúng ta chưa xóa kịp những cạnh tranh, hơn thua, danh lợi vốn dĩ đã theo chúng ta suốt những năm qua! Sự va chạm này là một cơ hội lớn cho chúng ta thử nghiệm với chính mình. Khi chúng ta hiểu được điều này và vẫn tiếp tục giữ ‘Bồ đề tâm kiên cố, chí tu học vững bền,’ thì đây mới chính là lúc mình bắt đầu cất bước trên con đường tu tập tâm linh vậy! 

San Jose, tháng 9 Mùa Trung thu, 2013

Thiện Ý

di_chua_2
ĐI CHÙA

Những Bước Đầu của Hành Trình Tâm Linh(2)

Thiện Ý

Như tất cả những người đi chùa, chúng ta đến chùa để tìm sự an tịnh. Đó là nhu cầu chính của người đi chùa. Phần nhiều, chúng ta đi chùa vì mình đang gặp khổ nạn nên muốn tìm một nơi yên tịnh nào đó để ‘lánh nạn.’ Do vậy, tâm tư của họ chưa chắc đã hoàn toàn thanh thản nên cũng có những lúc nóng nảy, sân si. Va chạm (bất an) là một điều ‘cần thiết’ cho những người bắt đầu đi chùa. Nhưng khi chưa chuẩn bị tâm lý, chúng ta có thể bị sốc mạnh nên trong những ngày đầu đến chùa tránh những nơi thị phi, đông đảo. Và nên tập trung niệm Phật, tụng kinh, hay thiền quán nhiều hơn.

Có một hiện tượng tâm lý xúc cảm mà trong kinh Phật gọi là tùy miên (anusaya). Hiện tượng tâm lý này thường nằm tiềm tàng bên dưới lớp vỏ ý thức của chúng ta và chúng có khuynh hướng lèo lái chúng ta chạy theo những nhận thức sai lầm do tâm còn vướng mắc của mình tạo ra. Chẳng hạn như sân tùy miên phát xuất từ những xúc cảm khổ đau nên khiến mình dễ sân hận, bực tức đối với những điều không vừa ý, như việc mình đi chùa mà không tìm thấy an lạc.

Tuy nhiên, an lạc và va chạm không phải là 2 mặt chống trái nhau mà là 2 mặt bổ túc cho nhau. Vì va chạm là thầy dạy cho chúng ta cách sống an lạc. Phật dạy trong Kinh Pháp cú:

"Vui thay, chúng ta sống, 
Không bệnh, giữa ốm đau! 
Giữa những người bệnh hoạn, 
Ta sống, không ốm đau."

Ta sống không ốm đau, không có nghĩa là mình sẽ không bao giờ đau ốm. Nhưng mình biết sống ‘không bệnh, giữa ốm đau’ mình biết tu nên ốm đau không làm mình mất đi chánh niệm để hiểu rằng ốm đau rồi cũng sẽ qua đi! 

Cái tâm thức của chúng ta đã quen việc thổi phồng những kinh nghiệm khổ đau, phiền não đến một cấp độ quá đáng khiến mình trở nên hoảng hốt, sợ hãi. Do vậy, mà căn bệnh thêm nặng. Bệnh, khổ, bất an, va chạm, v.v.. cũng vậy! Nói chung, tâm mình hay ‘thêm mắm, dậm muối’ vào những kinh nghiệm tiêu cực, xấu xa khiến cho cái kết quả trông thật là xấu tệ! Tất nhiên, không ai muốn đi tìm sự bất an, va chạm bao giờ! Nhưng chính việc đi chùa giúp mình cách tu để cái bất an, va chạm không làm mình khổ đau nhiều. Nếu mình cứ tiếp tục trốn chạy và chỉ đi tìm những nơi ‘không có’ bất an, va chạm thì suốt đời mình sẽ không tu được gì vì đi chùa là để học cách đối diện với bất an, va chạm hầu tìm ra cách để đối trị chúng. 

Như Phật có dạy: ‘đi tìm cái an ngay trong cái bất an; đi tìm cái hết khổ ngay trong cái khổ!’ Như mình bị đau lưng, hay nhức đầu, chính cái chổ đau lưng hay nhức đầu đó là nơi làm mình khổ. Muốn hết đau, hết nhức mình phải trị ngay chổ đã tạo ra cái nhức, cái đau đó. Khi cái đau, cái nhức hết là mình hết khổ. Nên có một câu chuyện ngụ ngôn về một người đi tìm cái chìa khóa bị mất. Anh này quẩn quanh tìm cái chìa khóa mất chung quanh cái đèn đường. Có người hỏi: ‘anh mất chìa khóa ở đâu?’ Anh bảo: ‘Ở cái xó đằng kia! Chổ không có ánh sáng đèn đường.’ Người kia bảo: ‘Vậy sao anh không đến đó mà kiếm, lại kiếm ở đây?’ Anh bảo: ‘Vì ở đây có ánh sáng của đèn!’ Đa số chúng ta là vậy! Thay vì đi tìm cách chữa lành vết đau ngay nơi gây ra đau đớn, ta tìm cách trốn tránh chổ gây ra đau khổ, hy vọng ‘không thấy mặt, thì không thấy đau,’ như anh nọ mất chìa khóa trong xó tối mà đi kiếm ở chỗ có đèn! 

Trong giới bình dân mình có câu nói thật là dí dỏm mà hay: ‘Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa!’ Theo thiển ý, sỡ dĩ tu chùa là thứ ba vì ở chùa tương đối dễ tu hơn, nhà và chợ. Nơi thanh tịnh trang nghiêm và khung cảnh vắng lặng của thiền môn dù sao cũng làm mình lắng dịu đôi chút. Thế mà mình vẫn không tìm thấy bình an! Vậy là căn bệnh bất an của mình coi như không còn thuốc chữa! Một ít va chạm ở chùa có đáng là bao nếu ta học cách xả bỏ và xem những va chạm này là những thử thách trên con đường tu tập tâm linh của mình. Vả lại, sự bình an không phải đến từ bên ngoài mà chính là từ tâm mình. Cho nên mới có chuyện ‘khéo tu thì nổi, mà vụng tu thì chìm’ là vậy!

Đường tu đòi hỏi phải bỏ nhiều công phu. Hễ khéo biết dụng công thì an lạc liền có mặt, bằng không thì khổ não theo hoài! Tổ Huệ Năng có dạy: ‘ Nếu nói về Phật tánh thì không có gì khác biệt giữa một kẻ ngu và một ông thánh. Một niệm giác ngộ thì người đó sẽ thành Phật. Một niệm si mê thì người kia sẽ thành một kẻ ngu.’ Một khi ngộ giống như một ngọn đèn chiếu sáng lên trong tâm thức khiến mình thấy rõ đâu là chánh giác, đâu là vô minh. Tu tập không giống như mình uống thuốc người khác chế tạo ra, mà do chính tự mình chế tác thuốc cho mình để trị căn bệnh của mình. Thuốc đây chính là niệm. Nếu là niệm giác thì mình hết khổ, thành thánh. Nếu mình niệm si thì làm một kẻ ngu!

Niệm ở đây chính là những ý nghĩ, ý tưởng (thoughts). Đa phần khoảng 90 phần trăm ý tưởng của chúng ta là những ý tưởng tiêu cực và xấu ác, hay còn gọi là niệm bất thiện, vọng niệm. Cho nên chúng ta phải tu tập hành trì để duy trì chánh niệm, tức là những ý tưởng tích cực, lành thiện. Nhờ đi chùa nên chúng ta không dám để những tà niệm, vọng niệm phát sanh nhiều. Vì vậy, va chạm là một cơ duyên để mình học cách duy trì chánh niệm, không để những suy nghĩ tiêu cực, xấu xa làm mình trở thành một người ngu, tiếp tục vướng mắc vào những phiền não, khổ đau.

Trong Bốn Thánh đế, Phật dạy về khổ và con đường diệt khổ vì Ngài biết rằng khổ chính là chất liệu nâng cao giá trị của hạnh phúc, an lạc. Nếu không có khổ thì hạnh phúc, an lạc không có giá trị gì. Hơn nữa, trên thế gian này khổ đau, phiền não là một điều tất yếu phải có, dù cho chúng ta có bỏ ra bao nhiêu tiền của để mua hạnh phúc, và xua đuổi khổ đau. Khổ là một sự thực (Khổ đế) dù chúng ta có nhìn nhận hay không! Khổ đau và hạnh phúc như hai mặt của một tờ giấy, mình không thể đòi lấy cái khổ đi và chỉ để cái hạnh phúc lại vì khi xé bỏ cái mặt khổ đi thì cái mặt hạnh phúc cũng mất luôn!

Va chạm khi đi chùa cũng vậy! Tất nhiên ai cũng muốn tìm an lạc khi đi chùa. Nhưng khi đi chùa để tu tâm, dưỡng tánh chúng ta phải chấp nhận và học cách sống với hai mặt trái và phải ở chùa, cũng như ở bất cứ nơi nào khác. Thế giới chúng ta đang sống bao gồm cà những điều mình thích và không thích. Có một câu chuyện về một người lặn lội tìm một vị Thiền sư danh tiếng để giúp an tâm cho anh ta. Khi đến gặp vị Thiền sư, anh ta liền than thở và xin được giúp an tâm. Vị Thiền sư liền bảo anh ta đem tâm ra để Ngài an cho. Anh ta bối rối không biết làm sao!? Đi chùa để tìm sự bình an. Nhưng thật sự nếu tâm mình chưa an thì có ở ngay nơi ‘Tịnh độ’ cũng bất an như thường! Chính vậy mà đi chùa học hỏi là học cách an tâm cho chính mình nên va chạm, bất an không còn là cái xấu, cái dở mà chính là cái đối tượng cần thiết để mình thực tập cách an tâm vậy!

San Jose, Mùa Thu – 2013

Thiện Ý
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4561)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7395)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4794)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4907)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5352)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10333)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9154)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6453)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8845)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5021)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]