Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mê Tín Làm Lấp Bít Con Đường Trở Về Nguồn Cội Phật Tâm

09/12/201306:22(Xem: 7648)
Mê Tín Làm Lấp Bít Con Đường Trở Về Nguồn Cội Phật Tâm
METIN_2


Tự thủy uyên nguyên, khắp các loài chúng sanh cùng với Phật đồng một tâm, tức cái tâm tánh tuyệt đối, chơn thường, vắng lặng, trong trẻo, tròn đầy, trùm khắp, không lay không động, không đến không đi, không sanh không diệt, vô thỉ vô chung, cực linh cực mầu, hay sanh các pháp. Do Phật tâm thanh tịnh, vắng lặng, huyền mầu, nhưng lại khéo sanh vạn pháp, nên cổ đức mới tạm mượn lời mà đặt tên, gọi cái tánh huyền mầu đó là "chơn không diệu hữu", tức từ cái tánh linh diệu trong trẻo, không một vật mà pháp pháp tuỳ duyên trùng trùng sanh khởi.

Từng mỗi chúng sanh hữu tình là mỗi pháp từ Phật tâm duyên khởi, cũng tức là những mảnh thức tâm xuất sanh từ diệu tánh Phật, có trọn đầy đủ các đức tính như trên kia của Phật tâm. Nghĩa là những mảnh tâm nguyên uỷ, ban sơ thường xuất nhập thông lưu vô ngại đồng một Phật tâm, nhưng do bôn ba lưu lãng, lâu đời lâu kiếp, càng ngày càng nhiễm ô sâu dày theo trần cảnh, vọng chấp "ngã, pháp" làm thật, tức trong chấp thân tâm, ngoài chấp vật cảnh làm thật có, khiến chúng sanh tự trói buộc theo vọng thức,vọng nghiệp, mà quên mất đường về. Do thức tâm vọng niệm, chấp trước, hệ lụy vào bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả nên khiến hữu tình phải trôi lăn đời đời kiếp kiếp trong dòng sanh tử, trói buộc nhơn quả luân hồi.

Hơn hai ngàn rưởi năm trước, vì lòng từ bi thương khắp chúng sanh mà một vị Đại Bồ tát trong nhiều đời nhiều kiếp quá khư đã giáng thế vào cõi Ta bà này, tu hành đắc đạo thành Phật, rồi chỉ bày cho chúng sanh hữu tình, cũng tức là những mảnh thức tâm lưu lãng bất định là con người chúng ta đây, biết đường tu học để giác ngộ bổn tánh phi sanh diệt của Phật tâm. Vị đạo sư, bậc đại giác, đại từ đại bi đó chính là đức Thích ca Mâu ni Phật, là bậc Từ phụ của hàng Phật tử chúng ta vậy. Sau khi thành đạo, Ngài đã sáng lập ra đạo Phật, để từ đó nhẫn tới ngày nay, nhân loại có được một tôn giáo để qui về, là chỗ nương tựa vững chắc để tín ngưỡng, để nương theo đó mà tu hành, hầu cứu cánh giải thoát tử sanh phiền não.

Lật lại từng trang Phật sử theo thời gian, thì từ lúc đức Thế tôn thành đạo, bắt đầu lăn chuyển pháp luân nhẫn tới ngày nay, thì trong khoảng một ngàn năm đầu tiên của thời kỳ Chánh pháp, nhờ gần gũi và còn chưa xa Phật là bao nhiêu, nên chúng sanh trong thời kỳ này, hễ có tu hành là gần như được chứng đắc đạo giải thoát. Trong một ngàn năm của thời Chánh pháp đó, tự nó được chia làm hai thời kỳ rõ rệt, đó là : Năm trăm năm đầu tiên được gọi là thời kỳ giải thoát kiên cố, tức có ngàn người qui Phật tu hành, là cả ngàn người đắc đạo giải thoát. Năm trăm năm tiếp theo của thời kỳ này là giai đoạn Thiền định kiên cố, tức số người qui hướng đạo Phật thời ấy đa phần tu tập theo thiền định, nên đắc đạo giải thoát cũng rất đông đảo.

Đến một ngàn năm tiếp theo cũng được chia làm hai thời kỳ rõ rệt, đó là: Năm trăm năm đầu của thời kỳ này là đa văn kiên cố, con người lúc đó không còn tha thiết nhiều với việc dụng thân tâm thực hành tu tập thiền định mà chỉ ưa nghe giảng giải kinh điển, luật luận, nên kết quả đa văn thông thái theo tri thức thì nhiều, mà đắc đạo vô vi giải thoát của đức Phật thì ngày càng ít hơn. Đến năm trăm năm kế tiếp là thời kỳ tháp miếu kiên cố. Chúng sanh trong giai đoạn này biếng lười tu tập theo thiền định cũng như bớt ham thích lối đa văn suy luận, vì nhọc thân mỏi trí, nên họ chỉ chú trọng về hình tướng, lo làm đền chùa, xây dựng tháp miếu, tạo dựng tượng cốt để lễ bái thờ lạy mà thôi, nên số người đắc đạo giải thoát của Thế-tôn lại càng ngày càng ít hơn nữa.

Đến năm trăm năm kế tiếp là thời đầu của mạt pháp, đó là thời kỳ đấu tranh kiên cố. Đây là thời mà như dự đoán của đức Phật, chúng ma con dân của Ba-Tuần chiếm lãnh các nơi trú xá của Tam bảo, khiến nảy sinh các tông, các phái của Phật giáo chia rẽ, đấu đá, tranh giành thế lực với nhau, làm cho các giáo pháp suy yếu dần. Và lẽ đương nhiên là số người tu hành đắc Pháp giải thoát trong thời kỳ này lại càng ít hơn nữa. Sau năm trăm năm đấu tranh kiên cố , thì đó là chánh thời của mạt pháp (pháp ngọn, xa lìa cái gốc pháp chân chính) mà chúng ta đang sống đây vậy. Ở thời này, tâm chúng sanh đen đúa nặng nề, ma tâm lừng lẫy, đạo Phật suy vi trầm trọng, tình trạng mê tín đã được những phần tử ác ma đội lốt con Phật thổi bùng lên, dẫn dắt chúng sanh đi vào ma lộ để trục lợi, khiến cái tâm tín ngưỡng của người ta đối với Phật đạo không còn là chánh tín nữa mà ngày càng bị hướng dẫn cũng như bị hiểu một cách sai lầm, lệch lạc nghiêm trọng, xa lìa chánh pháp ban đầu mà đức Phật đã dạy.

Cái lòng tín ngưỡng của hàng Phật tử đối với Phật đạo, từ xưa tới nay luôn được mọi người tán thán. Tuy nhiên, ở vào thời pháp ngọn này (mạt pháp = pháp ngọn, tức xa cái gốc của thời Chánh pháp) đã có không ít người trong chúng ta, do nghiệp thức nhiễm ô sâu dày, si mê điên đảo nặng nề, nên đã khiến từ cái lòng tin tốt đẹp của chúng sinh là tín ngưỡng lại trở thành si mê cuồng tín (mê tín) chỉ trong gang tấc. Và cũng vì cái tâm mịt mờ ngu muội, mê tín nên lúc nào và ở đâu trong thời mạt pháp này, cũng đã có không ít người lầm lạc theo pháp ma dẫn dắt, khiến uổng phí một đời tu học. Vì nghiệp tội sâu dày trong biển mê luân hồi sanh tử lâu đời lâu kiếp mà chúng ta có mặt trong cuộc sống này. Cho nên, để góp phần công đức hầu củng cố cho sự nghiệp giải thoát trong tương lai, thì không gì hơn là ngay trong lúc này, chúng ta cần phải nỗ lực vun trồng cái mầm giống thiện hạnh của phước đức, song song với việc tu học của bổn tâm, hầu có thể dẹp tan được cái hàng rào kiên cố của ma chủng, lúc nào cũng muốn ngăn trở con đường trở về lại Phật tâm của chúng ta. Đó chính là phước huệ song tu mà cổ đức đã từng dạy vậy.

Sự bít lấp con đường trở về Phật tâm khiến chúng ta trở nên ngu ngơ, mất phương hướng, mê muội, như nhược, không còn sự sáng suốt để có thể biện biệt được đâu là chánh pháp Phật, đâu là tà pháp của ma vương, khiến ma tâm mặc tình khiến sử, dẫn dắt, lôi kéo chúng ta đi sâu vào mê lộ tăm tối mà chúng ta không hề hay biết. Ma chủng dụ dỗ, dẫn dắt chúng ta đi vào mê lầm theo ma đạo, mê hoặc chúng ta tin tưởng vào những lời đường mật của chúng là đúng, làm cho chúng ta vô tình quay lưng lại với những lời dạy dỗ chân chính của đức Phật. Đa phần trong chúng ta đã lầm khi cố đi tìm cái dễ cho một sự giải thoát mau chóng mà không cần phải nhọc công, bỏ sức . Ngoái đầu nhìn lại thì thấy chúng ta đã đi lạc ra ngoài dòng đạo pháp của đức Phật rất xa. Chúng ta thường có cái tâm lý khinh thường chuyện làm phước, vì cho rằng đó là phước hữu lậu, mà quên rằng, trong kinh vô lượng thọ , đức Phật đã từng dạy: "Không chịu tu thiện trước, đến khi gần chết mới ăn năn thì quá muộn, làm sao cứu vãn cho kịp...".

Trong khi đó, ở vào thời mạt pháp này, chúng ma đội lốt Phật, núp bóng nhà Phật thì quá tinh vi, xảo quyệt mà với nhục nhãn và tri thức phàm tình của chúng ta thì khó bề phát hiện nổi. Chúng ma đó không từ bất cứ một thủ đoạn nào kể cả phỉnh lừa chúng ta đi vào con đường mê tín để trục lợi. Mà ai cũng đều biết, mê tín là cách thức dễ dàng nhất để những cái tâm đen đúa, xấu xa lôi kéo, phỉnh lừa những người nhẹ dạ, cuồng tín, u mê một cách dễ dàng nhất. Cho nên nếu chúng ta không ý thức được tầm nguy hiểm của mê tín, thì chúng ta sẽ mãi mãi lặn ngụp trầm luân thống khổ trong biển mê luân hồi sanh tử. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói một câu rất hay, đáng cho chúng ta suy ngẫm: "Không cần xây chùa, không cần triết lý rắc rối. Trí não ta, trái tim ta là ngôi chùa của ta. Triết lý của tôi là Từ Bi (compassion) - Trích trong TẠNG THƯ SỐNG CHẾT, NS Trí Hải dịch.

Quả thật đúng như vậy ! Qua hạnh lành của việc làm phúc thiện mà từng ngày chúng ta đã từng bước tự tẩy rửa những uế trược nhiễm ô của nhiều đời nhiều kiếp trước, để tự trang nghiêm ngôi bửu tự trong tâm ta, để nó ngày càng hiển lộ rõ ràng hơn. Đến chừng ấy, chúng ta sẽ khám phá ra được kho tàng trí huệ đã bị chôn vùi từ lâu đời lâu kiếp. Đến chứng ấy, tự tâm bổn tánh bừng sáng, cũng là tự chứng cái tâm phi sanh diệt đồng như Phật không khác. Chỉ có ngay tự bây giờ chúng ta đã và đang ươm mầm phúc thiện, thực hành thiện hạnh một cách tích cực như lời đức Phật và chư Tổ đã dạy, song song với việc tu tâm tu trí thì trong tương lai chúng ta mới mong thâm đạt chân lý giải thoát của Thế tôn; đến chứng ấy chúng ta mới mong thật chứng thế nào Bồ đề giải thoát tâm, tức cái tâm không sanh không diệt đồng như Phật không khác kia.

Từ lâu chúng ta thường nghe các thầy giảng, hoặc đọc kinh điển, sách vở của nhà Phật, biết được rằng có một pháp tu vi diệu gọi là Phước Huệ song tu mà nhiều người tu pháp này đã thành công, nghĩa là đã thật chứng được cái tâm bất sanh như Phật không khác. Điều này đã nêu bật một chân lý, đó là nếu thiếu phước thì huệ kia cũng khó phát sanh. Từ đó suy ra, một khi thiếu cái nhân phước, lại sai lầm trong tính cách tín ngưỡng, tức tin mù quáng, mê tín do bị ma khiến sử, biết cái này hay thấy cái kia theo sự dẫn dắt của ma tâm, thì đó MA huệ chứ đâu phải Phật huệ. Chúng ta đi vào đường sai mà cứ ngỡ mình đi đúng, chỉ có Phật huệ mới giúp chúng ta tránh sa vào đường ác và phát hiện được hành trạng của MA. Trong Lục Độ Ba La Mật bắt đầu bằng hạnh bố thí, nó là cái móng của ngôi nhà 6 tầng. Trí huệ là tầng thứ sáu, tầng bậc cao nhất mà chúng ta cần phải đạt tới để cứu cánh giải thoát. Bố thí-Trì giới-Nhẫn nhục-Tinh tấn-Thiền định mới đến được Trí huệ.

Nếu bám chặt không buông lơi “Lục Độ Ba La Mật” thì chúng ta sẽ không đi lạc ra ngoaì dòng pháp của Phật. Tiến trình học Phật đi theo giáo lý nhân quả, ai cũng phải trải qua nghiệp của mình, không ai thay thế cho ai được, Đức Phật cũng có cái nghiệp của nhục thân phải trả trước khi đắc quả, nên chúng ta không thể đi ra ngoài qui luật này, không thể vượt trên giáo lý nhân quả cho sự đạt ngộ được. Đức Phật sau 6 năm tu khổ hạnh, Ngài kiệt sức lê bước xuống dòng Ni Liên Thiền đựơc nàng Su Già Ta dâng cúng 1 bát cháo sữa. Sau khi uống xong và trước khi quăng cái bát xuống dòng sông, Ngài đã dõng dạc tuyên bố: "Nếu ta chứng đắc thành Phật quả, thì cái bát này sẽ trôi ngược lại dòng sông". Đó là bài pháp vĩ đại mà Ngài đã để lại cho thế gian, chúng ta cũng vậy, phải lội ngược dòng thế gian, tức cái dòng thác ngu si, điên đảo, mê tín đã cột trói chúng ta trong sinh tử luân hồi. Chúng ta cứ tưởng những gì chúng ta đang theo là đúng mà không biết rằng, chúng ta bồi đáp từ cái sai lầm này đến cái sai lầm khác.

Như khi cài sai cái nút áo đầu tiên thì nguyên dọc nút còn lại cũng đi theo cái sai này. Chủng tử này ngày càng lớn mạnh, chúng ta sẽ chống lại những ai đả phá lại niềm tin sai lạc của mình. Đó là vận hành của MA chủng, chúng khởi lên trong tâm chúng ta, như một thứ mệnh lệnh trong vi tính, chúng ta không còn khả năng sử dụng đến trí tuệ mình. Không có vị Thầy nào đưa ta ra khỏi bến mê này, đó là nghiệp xấu mà chúng ta đeo mang từ vô lượng kiếp, chúng ta chỉ có thể hoá giải bằng thiện hạnh vun trồng, đó là phương thuốc duy nhất, chỉ có PHƯỚC LỰC mới thoát được MA LỰC.

Chúng ta chỉ cần biết, do chúng là là kể thiếu nợ mới có mặt ở cảnh giới này. Chúng ta chớ nên khởi tâm chấp trước mà phân biệt phước nào là phước hữu lậu, phước nào là vô lậu, rồi sinh khởi định kiến, mà quên việc làm phước. Chúng ta đừng bị MA đánh lừa để không chịu làm phước, đừng bị MA lung lạc cho rằng việc làm phước thiện này chỉ là phước hữu lậu, chỉ được lên cõi trời và khi hết phước bị đọa xuống làm thân chúng sinh. Đừng tưởng lên cõi trời là dễ. Muốn sanh hóa lên cõi trời cần phải tu Thập Thiện một cách chân chính mới có thể được lên cõi trời. Nếu bạn tu Thập Thiện được một cách chân chính thì bạn phải là người đã từng vun trồng nhiều phước đức trong quá khứ, cũng như trước mắt bạn không bị MA khống chế để thốt lên những lời phê phán lệch lạc về giáo lý của đức Phật.

Chúng tôi biết khi viết bài này là không tránh được những đụng chạm với những thế lực đen tối lợi dụng sự nhẹ dạ của Phật tử để trục lợi, nhưng chúng tôi vẫn phải chấp nhận nếu có xảy ra đụng chạm. Chúng tôi không ngại đụng chạm nên mới mạnh mẽ gióng lên tiếng chuông cảnh báo, rằng mê tín là liều thuốc độc đang dần dần giết chết đời sống tâm linh chúng ta.Đức Phật dạy:“Pháp ta như thế, phải nói như thế này, chổ thật hành của Như Lai, phải nên làm theo, gieo trồng các hạt giống phúc thiện, cầu sinh về cõi tịnh kia”. Ở đây chúng ta thấy, gieo trồng các hạt giống phúc thiện là Nhân và cầu sinh Tịnh độ là Quả . Gieo nhân phước là điều kiện ắt có để cho quả vãng sinh Tịnh độ được thành tựu một cách mau chóng vậy.

Lại nữa, cũng trong Kinh Vô Lượng Thọ . Điều nguyện thứ 19 của Ngài Pháp Tạng, tức là tiền thân của Phật A Di Đà có nguyện: “Khi tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương, nghe danh hiệu tôi, phát tâm bồ đề, làm các công đức, phụng hành sáu pháp ba la mật kiên cố, không thoái chuyển, lại đem căn lành hồi hướng, nguyện sanh về nước tôi, một lòng nghĩ đến tôi, ngày đêm không gián đoạn”. Chúng ta thấy trước câu “Nguyện sanh về nước tôi”là một dọc dài những thiện hạnh như là điều kiện để phát nguyện vãng sinh. Câu “một lòng nghĩ đến tôi, ngày đêm không gián đoạn”là ý muốn nói đến việc chuyên tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà ngày đêm không ngưng dứt cho đến lúc nhất tâm bất loạn. Nhưng việc niệm này chỉ có thể thành tựu song song với quá trình làm phước dài lâu như Phật đã dạy trong đoạn trên.

Điều ấy có khác chi một người muốn sang bờ kia, đã được các bậc thầy chỉ dẫn cho phương cách qua bờ, cũng như trí năng và sức lực của anh ta thì gồm đủ, nhưng anh ta vẫn còn thiếu một chút phương tiện, đó là cái bè. Cái bè trong trường hợp này chính là thành quả từ cái nhân phước của anh ta đã gieo trồng ở quá khứ vậy. Lại nữa, cũng trong Kinh Vô Lượng Thọ, ngài A Nan bạch Phật: “ Cõi thanh tịnh của Đức Phật kia đặng chưa từng có , tôi cũng muốn sanh về cõi nước đó. Đức Thế Tôn bảo rằng: “Ai sanh về nước Cực Lạc, người đó đã từng gần gũi các Đức Phật vô lượng, từng trồng các gốc đức.Ông muốn sanh về nước kia , cần phải một lòng quy y chiêm ngưỡng.”Đoạn này cho chúng ta thấy, con đường vãng sinh Cực Lạc không phải là chuyện đơn giản. Đức Phật luôn nhấn mạnh đến việc gieo trồng nhân phước như là một điều kiện tất yếu để được vãng sinh. Lời cuối trước khi nhập diệt Đức Phật cũng không quên răn dạy các hàng đệ tử của Ngài: “ Các Người Phải Tự Thắp Đuốc Mà Đi”Việc thắp đuốc mà đi đó, không ngoài phước huệ song tu vậy.

Cuối cùng, chúng tôi hy vọng con đường học Phật của chúng ta sẽ tiến mạnh qua nhân phước được chăm chút vun bồi. Vì chỉ nhờ phước lực chúng ta mới có thể phá tan hàng rào mê tín dầy đặc đã ngăn che không cho chúng ta tìm thấy chánh pháp. Nhờ phước lực chúng ta sẽ có cái dũng khí để mạnh dạn lấy đi những hạt sạn đã bị người ta vô tình hay cố ý bỏ vào trong nồi cơm ngon, tức nêu ra những điều hủ bại, mê tín mà người ta đã lợi dụng Đạo Phật để tuyên truyền, trục lợi. Chúng ta đã quá giải đãi trong việc tu hành vì sự ỷ lại vào việc có người hộ niệm cho việc vãng sinh. Chúng ta không biết tự lo lắng chuẩn bị hành trang cho chính mình khi phải sắp đối diện với cái chết. Chúng ta không chút bận tâm cho những chuyện xấu ác đã làm trong đời này vì nghĩ rằng có thể đới nghiệp vãng sinh. Nếu chúng ta không thay đổi cái nhìn về Đạo Phật thì chúng ta càng bị lún sâu trong biển mê tăm tối, hành trình của chuổi kiếp luân hồi sẽ theo chúng ta bất tận. Mong thay! Mong thay!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/10/2020(Xem: 5339)
Người vợ chuẩn bị đâu vào đó ngăn nắp bài bản phần tịnh tài để người chồng mang đi theo đoàn "hành hương thập tự" (lễ bái cúng dường mười chùa). Mười phong bì. Mỗi phong bì có 3 tờ tiền polymer mệnh giá 200 nghìn đồng, vị chi là sáu trăm nghìn, mười chùa tổng cộng sáu triệu đồng. Người chồng vui mừng, hí hửng đến điểm tập trung tại chùa từ sáng sớm, lòng rất nôn nao háo hức vì là lần đầu tiên ông được tham dự chuyến hành hương bái Phật lễ Tăng, vãng cảnh chùa chiền, lại còn được bà xã đồng thuận bằng sự hoan hỷ chân thành, khuyến khích chồng gieo duyên với Tam Bảo đặng học tu hướng thiện, tạo phước tích đức.
06/10/2020(Xem: 4867)
Khi đã trải qua những cuộc đua tranh đấu đá đầy hứng khởi và háo hức đến nỗi tưởng là không bao giờ mệt mỏi chán nhàm suốt một quãng đời cầm bút nắm cọ vung văng tung tác thì bất chợt một khoảnh khắc đất trời như bất động với một màn sương mờ u ám giăng trùm rồi ngay sau đó bừng lên sáng lòa và chao nghiêng cùng hàng trăm tinh tú nhảy múa theo nhịp điệu thật dịu dàng mà vô cùng trật tự trong bài bản bình an.
06/10/2020(Xem: 5866)
Hòa thượng Telo Tulku, Thượng thủ Giáo hội Phật giáo Cộng hòa Phật giáo Kalmykia (thuộc Liên bang Nga) và đại diện danh dự của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Nga và Mông Cổ, cùng các thành viên của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập, đã gặp các học giả từ nước Cộng hòa Phật giáo Kalmykia vào ngày 30 tháng 9 vừa qua, để thảo luận về khả năng thành lập một trung tâm giáo dục Đại học Phật giáo. Vào đầu thế kỷ 20, có một số trung tâm cao học Phật giáo tại Kalmykia, được gọi là Tsannid Chöra (Viện Triết học Phật giáo), trước đây đã bị phá hủy bởi Đảng Cộng sản vô thần cực đoan thời Xô Viết.
05/10/2020(Xem: 5423)
Các nguồn tin từ Tây Tạng cho biết, trong một lĩnh vực việc làm vốn đã bị đánh dấu bởi hạn chế cơ hội, các bạn Tây Tạng trẻ tuổi đang tìm kiếm nhân viên chính phủ, đang được yêu cầu kết nạp Đảng cầm quyền Cộng sản Trung Quốc, và nghiên cứu kỹ lưỡng tư tưởng chính trị của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Chủ tịch Quân Trung ương Trung Quốc, Tập Cận Bình.
03/10/2020(Xem: 7785)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Sáng hôm Rằm Trung Thu vừa qua chúng con, chúng tôi lại có dịp lên đường gieo hạt tình thương. Nơi đã đến phát quà là 2 ngôi làng có tên Sudhapur và Aditya Village, hai ngôi làng nghèo này nằm trên lộ trình từ Bodhgaya hướng về Rajgir Thành Vương Xá. Cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 27 cây số. - Buổi phát chẩn đã thực hiện cho 302 hộ nghèo. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình..
03/10/2020(Xem: 5956)
Matxcova: “Ba chuyến quang lâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma”, một cuộc triển lãm hình ảnh lưu động được khai mạc vào ngày 2/10/2020 tại ngôi đại già lam Phật Thích Ca Mâu Ni (Buddha Shakyamuni) tọa lạc tại Elista, thủ đô của nước Cộng hoà Kalmykia, một quốc gia cộng hòa thuộc Nga, nằm ở phía Nam Liên bang Nga, khu vực rìa Đông của châu Âu. Triển lãm được tổ chức nhân kỷ niệm 15 năm “Trụ trì ngôi đại già lam Phật Thích Ca Mâu Ni”.
03/10/2020(Xem: 6302)
Ngưỡng bạch Giác Linh Hòa Thượng Ân Sư, Quạnh hiu trên bến sông buồn, Sa Giang nước chảy về nguồn nhớ thương, Bao nhiêu nước chảy bấy nhiêu buồn; Thầy ơi ! Trăng nước còn xót xa. Mỗi độ Xuân về, trong ký ức chúng con lại miên man với bao kỷ niệm thiêng liêng cùng vị Ân sư mà chúng con có phúc duyên được học luật và hầu bên cạnh Ngài trong những giờ phút cuối đời. Đó là Trưởng lão Luật sư Thích Huệ Hưng.
03/10/2020(Xem: 6552)
Cư sĩ Chhimey Rigzen, Đại diện Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Trung và Đông Âu và Chính quyền Trương ương lưu vong Tây Tạng, và nữ cư sĩ Thinlay Chukki, người được Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (UNHRC) và và Chính quyền Trương ương lưu vong Tây Tạng (CTA) bổ nhiệm đặc biệt về Nhân quyền tại Văn phòng CTA tại Genèva cùng với Đại sứ Andrew Bremberg, đại diện thường trực của Hoa Kỳ tại Văn phòng Liên Hợp Quốc và Tổ chức Quốc tế khác tại Genèva, Thụy Sỹ ngày 30 tháng 9 năm 2020.
03/10/2020(Xem: 5878)
Hôm nay trời nhẹ lên cao. Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.[1] Mỹ Ngư cất tiếng hát nho nhỏ. Nàng buồn như tâm trạng câu thơ, chỉ man mác, vu vơ không rõ nguyên do. Nếu quay ngược được thời gian trở lại bốn chục năm về trước khi nàng là thiếu nữ thì còn hiểu được, nhưng đằng này... Lòng buồn suy nghĩ mông lung, bỗng nàng nhớ lại lời Phật dạy; phàm việc gì cũng phải do “duyên khởi“. Cái duyên của nàng bắt đầu là một giấc mơ, một giấc mơ kỳ lạ!
02/10/2020(Xem: 5332)
Cuộc họp chung đầu tiên được tổ chức bởi Hiệp hội các nhà Lãnh đạo Thiền phái Phật giáo Hàn Quốc, tổ chức hàng đầu việc việc giữ gìn và phát huy pháp môn Tham thiền Công án, Thoại đầu (간화선, 看話禪), một thực hành truyền thống của Phật giáo Hàn Quốc. Hiệp hội các nhà Lãnh đạo Thiền phái Phật giáo Hàn Quốc (Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Thượng tọa Uijeong (의정스님), Chủ tịch Thượng tọa Gaksan (각산스님) đã tổ chức Đại hội lần thứ nhất tại Tham Phật Thiền Viện (참불선원-參佛禪院), vào ngày 14 tháng 9 năm 2020 tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc và cam kết sẽ “Nỗ lực Phổ biến và Toàn cầu hóa Tham thiền”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]