Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mê Tín Làm Lấp Bít Con Đường Trở Về Nguồn Cội Phật Tâm

09/12/201306:22(Xem: 7747)
Mê Tín Làm Lấp Bít Con Đường Trở Về Nguồn Cội Phật Tâm
METIN_2


Tự thủy uyên nguyên, khắp các loài chúng sanh cùng với Phật đồng một tâm, tức cái tâm tánh tuyệt đối, chơn thường, vắng lặng, trong trẻo, tròn đầy, trùm khắp, không lay không động, không đến không đi, không sanh không diệt, vô thỉ vô chung, cực linh cực mầu, hay sanh các pháp. Do Phật tâm thanh tịnh, vắng lặng, huyền mầu, nhưng lại khéo sanh vạn pháp, nên cổ đức mới tạm mượn lời mà đặt tên, gọi cái tánh huyền mầu đó là "chơn không diệu hữu", tức từ cái tánh linh diệu trong trẻo, không một vật mà pháp pháp tuỳ duyên trùng trùng sanh khởi.

Từng mỗi chúng sanh hữu tình là mỗi pháp từ Phật tâm duyên khởi, cũng tức là những mảnh thức tâm xuất sanh từ diệu tánh Phật, có trọn đầy đủ các đức tính như trên kia của Phật tâm. Nghĩa là những mảnh tâm nguyên uỷ, ban sơ thường xuất nhập thông lưu vô ngại đồng một Phật tâm, nhưng do bôn ba lưu lãng, lâu đời lâu kiếp, càng ngày càng nhiễm ô sâu dày theo trần cảnh, vọng chấp "ngã, pháp" làm thật, tức trong chấp thân tâm, ngoài chấp vật cảnh làm thật có, khiến chúng sanh tự trói buộc theo vọng thức,vọng nghiệp, mà quên mất đường về. Do thức tâm vọng niệm, chấp trước, hệ lụy vào bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả nên khiến hữu tình phải trôi lăn đời đời kiếp kiếp trong dòng sanh tử, trói buộc nhơn quả luân hồi.

Hơn hai ngàn rưởi năm trước, vì lòng từ bi thương khắp chúng sanh mà một vị Đại Bồ tát trong nhiều đời nhiều kiếp quá khư đã giáng thế vào cõi Ta bà này, tu hành đắc đạo thành Phật, rồi chỉ bày cho chúng sanh hữu tình, cũng tức là những mảnh thức tâm lưu lãng bất định là con người chúng ta đây, biết đường tu học để giác ngộ bổn tánh phi sanh diệt của Phật tâm. Vị đạo sư, bậc đại giác, đại từ đại bi đó chính là đức Thích ca Mâu ni Phật, là bậc Từ phụ của hàng Phật tử chúng ta vậy. Sau khi thành đạo, Ngài đã sáng lập ra đạo Phật, để từ đó nhẫn tới ngày nay, nhân loại có được một tôn giáo để qui về, là chỗ nương tựa vững chắc để tín ngưỡng, để nương theo đó mà tu hành, hầu cứu cánh giải thoát tử sanh phiền não.

Lật lại từng trang Phật sử theo thời gian, thì từ lúc đức Thế tôn thành đạo, bắt đầu lăn chuyển pháp luân nhẫn tới ngày nay, thì trong khoảng một ngàn năm đầu tiên của thời kỳ Chánh pháp, nhờ gần gũi và còn chưa xa Phật là bao nhiêu, nên chúng sanh trong thời kỳ này, hễ có tu hành là gần như được chứng đắc đạo giải thoát. Trong một ngàn năm của thời Chánh pháp đó, tự nó được chia làm hai thời kỳ rõ rệt, đó là : Năm trăm năm đầu tiên được gọi là thời kỳ giải thoát kiên cố, tức có ngàn người qui Phật tu hành, là cả ngàn người đắc đạo giải thoát. Năm trăm năm tiếp theo của thời kỳ này là giai đoạn Thiền định kiên cố, tức số người qui hướng đạo Phật thời ấy đa phần tu tập theo thiền định, nên đắc đạo giải thoát cũng rất đông đảo.

Đến một ngàn năm tiếp theo cũng được chia làm hai thời kỳ rõ rệt, đó là: Năm trăm năm đầu của thời kỳ này là đa văn kiên cố, con người lúc đó không còn tha thiết nhiều với việc dụng thân tâm thực hành tu tập thiền định mà chỉ ưa nghe giảng giải kinh điển, luật luận, nên kết quả đa văn thông thái theo tri thức thì nhiều, mà đắc đạo vô vi giải thoát của đức Phật thì ngày càng ít hơn. Đến năm trăm năm kế tiếp là thời kỳ tháp miếu kiên cố. Chúng sanh trong giai đoạn này biếng lười tu tập theo thiền định cũng như bớt ham thích lối đa văn suy luận, vì nhọc thân mỏi trí, nên họ chỉ chú trọng về hình tướng, lo làm đền chùa, xây dựng tháp miếu, tạo dựng tượng cốt để lễ bái thờ lạy mà thôi, nên số người đắc đạo giải thoát của Thế-tôn lại càng ngày càng ít hơn nữa.

Đến năm trăm năm kế tiếp là thời đầu của mạt pháp, đó là thời kỳ đấu tranh kiên cố. Đây là thời mà như dự đoán của đức Phật, chúng ma con dân của Ba-Tuần chiếm lãnh các nơi trú xá của Tam bảo, khiến nảy sinh các tông, các phái của Phật giáo chia rẽ, đấu đá, tranh giành thế lực với nhau, làm cho các giáo pháp suy yếu dần. Và lẽ đương nhiên là số người tu hành đắc Pháp giải thoát trong thời kỳ này lại càng ít hơn nữa. Sau năm trăm năm đấu tranh kiên cố , thì đó là chánh thời của mạt pháp (pháp ngọn, xa lìa cái gốc pháp chân chính) mà chúng ta đang sống đây vậy. Ở thời này, tâm chúng sanh đen đúa nặng nề, ma tâm lừng lẫy, đạo Phật suy vi trầm trọng, tình trạng mê tín đã được những phần tử ác ma đội lốt con Phật thổi bùng lên, dẫn dắt chúng sanh đi vào ma lộ để trục lợi, khiến cái tâm tín ngưỡng của người ta đối với Phật đạo không còn là chánh tín nữa mà ngày càng bị hướng dẫn cũng như bị hiểu một cách sai lầm, lệch lạc nghiêm trọng, xa lìa chánh pháp ban đầu mà đức Phật đã dạy.

Cái lòng tín ngưỡng của hàng Phật tử đối với Phật đạo, từ xưa tới nay luôn được mọi người tán thán. Tuy nhiên, ở vào thời pháp ngọn này (mạt pháp = pháp ngọn, tức xa cái gốc của thời Chánh pháp) đã có không ít người trong chúng ta, do nghiệp thức nhiễm ô sâu dày, si mê điên đảo nặng nề, nên đã khiến từ cái lòng tin tốt đẹp của chúng sinh là tín ngưỡng lại trở thành si mê cuồng tín (mê tín) chỉ trong gang tấc. Và cũng vì cái tâm mịt mờ ngu muội, mê tín nên lúc nào và ở đâu trong thời mạt pháp này, cũng đã có không ít người lầm lạc theo pháp ma dẫn dắt, khiến uổng phí một đời tu học. Vì nghiệp tội sâu dày trong biển mê luân hồi sanh tử lâu đời lâu kiếp mà chúng ta có mặt trong cuộc sống này. Cho nên, để góp phần công đức hầu củng cố cho sự nghiệp giải thoát trong tương lai, thì không gì hơn là ngay trong lúc này, chúng ta cần phải nỗ lực vun trồng cái mầm giống thiện hạnh của phước đức, song song với việc tu học của bổn tâm, hầu có thể dẹp tan được cái hàng rào kiên cố của ma chủng, lúc nào cũng muốn ngăn trở con đường trở về lại Phật tâm của chúng ta. Đó chính là phước huệ song tu mà cổ đức đã từng dạy vậy.

Sự bít lấp con đường trở về Phật tâm khiến chúng ta trở nên ngu ngơ, mất phương hướng, mê muội, như nhược, không còn sự sáng suốt để có thể biện biệt được đâu là chánh pháp Phật, đâu là tà pháp của ma vương, khiến ma tâm mặc tình khiến sử, dẫn dắt, lôi kéo chúng ta đi sâu vào mê lộ tăm tối mà chúng ta không hề hay biết. Ma chủng dụ dỗ, dẫn dắt chúng ta đi vào mê lầm theo ma đạo, mê hoặc chúng ta tin tưởng vào những lời đường mật của chúng là đúng, làm cho chúng ta vô tình quay lưng lại với những lời dạy dỗ chân chính của đức Phật. Đa phần trong chúng ta đã lầm khi cố đi tìm cái dễ cho một sự giải thoát mau chóng mà không cần phải nhọc công, bỏ sức . Ngoái đầu nhìn lại thì thấy chúng ta đã đi lạc ra ngoài dòng đạo pháp của đức Phật rất xa. Chúng ta thường có cái tâm lý khinh thường chuyện làm phước, vì cho rằng đó là phước hữu lậu, mà quên rằng, trong kinh vô lượng thọ , đức Phật đã từng dạy: "Không chịu tu thiện trước, đến khi gần chết mới ăn năn thì quá muộn, làm sao cứu vãn cho kịp...".

Trong khi đó, ở vào thời mạt pháp này, chúng ma đội lốt Phật, núp bóng nhà Phật thì quá tinh vi, xảo quyệt mà với nhục nhãn và tri thức phàm tình của chúng ta thì khó bề phát hiện nổi. Chúng ma đó không từ bất cứ một thủ đoạn nào kể cả phỉnh lừa chúng ta đi vào con đường mê tín để trục lợi. Mà ai cũng đều biết, mê tín là cách thức dễ dàng nhất để những cái tâm đen đúa, xấu xa lôi kéo, phỉnh lừa những người nhẹ dạ, cuồng tín, u mê một cách dễ dàng nhất. Cho nên nếu chúng ta không ý thức được tầm nguy hiểm của mê tín, thì chúng ta sẽ mãi mãi lặn ngụp trầm luân thống khổ trong biển mê luân hồi sanh tử. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói một câu rất hay, đáng cho chúng ta suy ngẫm: "Không cần xây chùa, không cần triết lý rắc rối. Trí não ta, trái tim ta là ngôi chùa của ta. Triết lý của tôi là Từ Bi (compassion) - Trích trong TẠNG THƯ SỐNG CHẾT, NS Trí Hải dịch.

Quả thật đúng như vậy ! Qua hạnh lành của việc làm phúc thiện mà từng ngày chúng ta đã từng bước tự tẩy rửa những uế trược nhiễm ô của nhiều đời nhiều kiếp trước, để tự trang nghiêm ngôi bửu tự trong tâm ta, để nó ngày càng hiển lộ rõ ràng hơn. Đến chừng ấy, chúng ta sẽ khám phá ra được kho tàng trí huệ đã bị chôn vùi từ lâu đời lâu kiếp. Đến chứng ấy, tự tâm bổn tánh bừng sáng, cũng là tự chứng cái tâm phi sanh diệt đồng như Phật không khác. Chỉ có ngay tự bây giờ chúng ta đã và đang ươm mầm phúc thiện, thực hành thiện hạnh một cách tích cực như lời đức Phật và chư Tổ đã dạy, song song với việc tu tâm tu trí thì trong tương lai chúng ta mới mong thâm đạt chân lý giải thoát của Thế tôn; đến chứng ấy chúng ta mới mong thật chứng thế nào Bồ đề giải thoát tâm, tức cái tâm không sanh không diệt đồng như Phật không khác kia.

Từ lâu chúng ta thường nghe các thầy giảng, hoặc đọc kinh điển, sách vở của nhà Phật, biết được rằng có một pháp tu vi diệu gọi là Phước Huệ song tu mà nhiều người tu pháp này đã thành công, nghĩa là đã thật chứng được cái tâm bất sanh như Phật không khác. Điều này đã nêu bật một chân lý, đó là nếu thiếu phước thì huệ kia cũng khó phát sanh. Từ đó suy ra, một khi thiếu cái nhân phước, lại sai lầm trong tính cách tín ngưỡng, tức tin mù quáng, mê tín do bị ma khiến sử, biết cái này hay thấy cái kia theo sự dẫn dắt của ma tâm, thì đó MA huệ chứ đâu phải Phật huệ. Chúng ta đi vào đường sai mà cứ ngỡ mình đi đúng, chỉ có Phật huệ mới giúp chúng ta tránh sa vào đường ác và phát hiện được hành trạng của MA. Trong Lục Độ Ba La Mật bắt đầu bằng hạnh bố thí, nó là cái móng của ngôi nhà 6 tầng. Trí huệ là tầng thứ sáu, tầng bậc cao nhất mà chúng ta cần phải đạt tới để cứu cánh giải thoát. Bố thí-Trì giới-Nhẫn nhục-Tinh tấn-Thiền định mới đến được Trí huệ.

Nếu bám chặt không buông lơi “Lục Độ Ba La Mật” thì chúng ta sẽ không đi lạc ra ngoaì dòng pháp của Phật. Tiến trình học Phật đi theo giáo lý nhân quả, ai cũng phải trải qua nghiệp của mình, không ai thay thế cho ai được, Đức Phật cũng có cái nghiệp của nhục thân phải trả trước khi đắc quả, nên chúng ta không thể đi ra ngoài qui luật này, không thể vượt trên giáo lý nhân quả cho sự đạt ngộ được. Đức Phật sau 6 năm tu khổ hạnh, Ngài kiệt sức lê bước xuống dòng Ni Liên Thiền đựơc nàng Su Già Ta dâng cúng 1 bát cháo sữa. Sau khi uống xong và trước khi quăng cái bát xuống dòng sông, Ngài đã dõng dạc tuyên bố: "Nếu ta chứng đắc thành Phật quả, thì cái bát này sẽ trôi ngược lại dòng sông". Đó là bài pháp vĩ đại mà Ngài đã để lại cho thế gian, chúng ta cũng vậy, phải lội ngược dòng thế gian, tức cái dòng thác ngu si, điên đảo, mê tín đã cột trói chúng ta trong sinh tử luân hồi. Chúng ta cứ tưởng những gì chúng ta đang theo là đúng mà không biết rằng, chúng ta bồi đáp từ cái sai lầm này đến cái sai lầm khác.

Như khi cài sai cái nút áo đầu tiên thì nguyên dọc nút còn lại cũng đi theo cái sai này. Chủng tử này ngày càng lớn mạnh, chúng ta sẽ chống lại những ai đả phá lại niềm tin sai lạc của mình. Đó là vận hành của MA chủng, chúng khởi lên trong tâm chúng ta, như một thứ mệnh lệnh trong vi tính, chúng ta không còn khả năng sử dụng đến trí tuệ mình. Không có vị Thầy nào đưa ta ra khỏi bến mê này, đó là nghiệp xấu mà chúng ta đeo mang từ vô lượng kiếp, chúng ta chỉ có thể hoá giải bằng thiện hạnh vun trồng, đó là phương thuốc duy nhất, chỉ có PHƯỚC LỰC mới thoát được MA LỰC.

Chúng ta chỉ cần biết, do chúng là là kể thiếu nợ mới có mặt ở cảnh giới này. Chúng ta chớ nên khởi tâm chấp trước mà phân biệt phước nào là phước hữu lậu, phước nào là vô lậu, rồi sinh khởi định kiến, mà quên việc làm phước. Chúng ta đừng bị MA đánh lừa để không chịu làm phước, đừng bị MA lung lạc cho rằng việc làm phước thiện này chỉ là phước hữu lậu, chỉ được lên cõi trời và khi hết phước bị đọa xuống làm thân chúng sinh. Đừng tưởng lên cõi trời là dễ. Muốn sanh hóa lên cõi trời cần phải tu Thập Thiện một cách chân chính mới có thể được lên cõi trời. Nếu bạn tu Thập Thiện được một cách chân chính thì bạn phải là người đã từng vun trồng nhiều phước đức trong quá khứ, cũng như trước mắt bạn không bị MA khống chế để thốt lên những lời phê phán lệch lạc về giáo lý của đức Phật.

Chúng tôi biết khi viết bài này là không tránh được những đụng chạm với những thế lực đen tối lợi dụng sự nhẹ dạ của Phật tử để trục lợi, nhưng chúng tôi vẫn phải chấp nhận nếu có xảy ra đụng chạm. Chúng tôi không ngại đụng chạm nên mới mạnh mẽ gióng lên tiếng chuông cảnh báo, rằng mê tín là liều thuốc độc đang dần dần giết chết đời sống tâm linh chúng ta.Đức Phật dạy:“Pháp ta như thế, phải nói như thế này, chổ thật hành của Như Lai, phải nên làm theo, gieo trồng các hạt giống phúc thiện, cầu sinh về cõi tịnh kia”. Ở đây chúng ta thấy, gieo trồng các hạt giống phúc thiện là Nhân và cầu sinh Tịnh độ là Quả . Gieo nhân phước là điều kiện ắt có để cho quả vãng sinh Tịnh độ được thành tựu một cách mau chóng vậy.

Lại nữa, cũng trong Kinh Vô Lượng Thọ . Điều nguyện thứ 19 của Ngài Pháp Tạng, tức là tiền thân của Phật A Di Đà có nguyện: “Khi tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương, nghe danh hiệu tôi, phát tâm bồ đề, làm các công đức, phụng hành sáu pháp ba la mật kiên cố, không thoái chuyển, lại đem căn lành hồi hướng, nguyện sanh về nước tôi, một lòng nghĩ đến tôi, ngày đêm không gián đoạn”. Chúng ta thấy trước câu “Nguyện sanh về nước tôi”là một dọc dài những thiện hạnh như là điều kiện để phát nguyện vãng sinh. Câu “một lòng nghĩ đến tôi, ngày đêm không gián đoạn”là ý muốn nói đến việc chuyên tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà ngày đêm không ngưng dứt cho đến lúc nhất tâm bất loạn. Nhưng việc niệm này chỉ có thể thành tựu song song với quá trình làm phước dài lâu như Phật đã dạy trong đoạn trên.

Điều ấy có khác chi một người muốn sang bờ kia, đã được các bậc thầy chỉ dẫn cho phương cách qua bờ, cũng như trí năng và sức lực của anh ta thì gồm đủ, nhưng anh ta vẫn còn thiếu một chút phương tiện, đó là cái bè. Cái bè trong trường hợp này chính là thành quả từ cái nhân phước của anh ta đã gieo trồng ở quá khứ vậy. Lại nữa, cũng trong Kinh Vô Lượng Thọ, ngài A Nan bạch Phật: “ Cõi thanh tịnh của Đức Phật kia đặng chưa từng có , tôi cũng muốn sanh về cõi nước đó. Đức Thế Tôn bảo rằng: “Ai sanh về nước Cực Lạc, người đó đã từng gần gũi các Đức Phật vô lượng, từng trồng các gốc đức.Ông muốn sanh về nước kia , cần phải một lòng quy y chiêm ngưỡng.”Đoạn này cho chúng ta thấy, con đường vãng sinh Cực Lạc không phải là chuyện đơn giản. Đức Phật luôn nhấn mạnh đến việc gieo trồng nhân phước như là một điều kiện tất yếu để được vãng sinh. Lời cuối trước khi nhập diệt Đức Phật cũng không quên răn dạy các hàng đệ tử của Ngài: “ Các Người Phải Tự Thắp Đuốc Mà Đi”Việc thắp đuốc mà đi đó, không ngoài phước huệ song tu vậy.

Cuối cùng, chúng tôi hy vọng con đường học Phật của chúng ta sẽ tiến mạnh qua nhân phước được chăm chút vun bồi. Vì chỉ nhờ phước lực chúng ta mới có thể phá tan hàng rào mê tín dầy đặc đã ngăn che không cho chúng ta tìm thấy chánh pháp. Nhờ phước lực chúng ta sẽ có cái dũng khí để mạnh dạn lấy đi những hạt sạn đã bị người ta vô tình hay cố ý bỏ vào trong nồi cơm ngon, tức nêu ra những điều hủ bại, mê tín mà người ta đã lợi dụng Đạo Phật để tuyên truyền, trục lợi. Chúng ta đã quá giải đãi trong việc tu hành vì sự ỷ lại vào việc có người hộ niệm cho việc vãng sinh. Chúng ta không biết tự lo lắng chuẩn bị hành trang cho chính mình khi phải sắp đối diện với cái chết. Chúng ta không chút bận tâm cho những chuyện xấu ác đã làm trong đời này vì nghĩ rằng có thể đới nghiệp vãng sinh. Nếu chúng ta không thay đổi cái nhìn về Đạo Phật thì chúng ta càng bị lún sâu trong biển mê tăm tối, hành trình của chuổi kiếp luân hồi sẽ theo chúng ta bất tận. Mong thay! Mong thay!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/03/2022(Xem: 10089)
Trong lúc còn trụ thế, Đức Phật có 10 đệ tử rất xuất sắc. Thuở đó, Phật đã khen mỗi vị giỏi nhất về một lãnh vực, nhưng không đánh giá vị nào đứng nhất, vị nào đứng nhì, ba... trong tăng đoàn. Điều này thật dễ hiểu: đã đắc quả Chánh Đẳng Chánh Giác thì vị nào cũng giỏi cả. Giả sử có dịp ngồi bên nhau, hẳn mười vị A-la-hán này sẽ không bao giờ nhận mình là người giỏi. Thế thì có ai dám nói mình là “người giỏi hơn người”!
28/03/2022(Xem: 13037)
Truyện Tranh LỊCH SỬ PHẬT THÍCH CA là chuyện kể về đời một danh nhân, một ông hoàng vương giả, đã tự mình tìm ra pháp Bất Sanh Bất Diệt và trở thành bậc Thánh ngay giữa lòng nhân sinh cách đây trên 26 thế kỷ. Từ đó đến nay tuy cuộc sống đã có nhiều đổi thay nhưng đời sống, nhân cách và tư tưởng của Ngài vẫn là ánh sáng, niềm tin trong tâm hồn của những người yêu Chân, Thiện.
25/03/2022(Xem: 6319)
Nhân kỷ niệm Ngày đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, với tâm niệm hộ trì Tam Bảo và hỗ trợ chư Tăng tu hành nơi xứ Phật đang trong lúc khó khăn, chúng con, chúng tôi vừa thực hiện một buổi cúng dường tịnh tài đến chư Tôn đức Tăng già, các bậc xuất sỹ thường trú chung quanh khu Thánh tích Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Thế Tôn thành Đạo..
25/03/2022(Xem: 4568)
Nhân Duyên Tâm Luận Tụng Thánh Long Thọ Ấn ngữ:pratītyasamutpāda hṛdaya kārikā Tạng ngữ: rten cing 'brel par 'byung ba'i snying po tshig le'ur byas pa
25/03/2022(Xem: 3333)
Hành giả phải phát khởi các giai đoạn động lực và hành vi vì lợi lạc của tất cả các bà mẹ hữu tình, bao la như không gian, tôi phải thành tựu quả vị giác ngộ viên mãn vô song, và vì mục tiêu này mà tôi nên lắng nghe giáo pháp cao quý. Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi. Bài pháp Tứ Diệu Đế này là khuôn khổ của Phật pháp.
25/03/2022(Xem: 4579)
Hãy phát khởi động lực và hành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian, tôi phải thành tựu giác ngộ vô song và hoàn hảo. Người ta phải nghĩ rằng mục tiêu chánh của việc lắng nghe giáo pháp là để tu tập. Hơn nữa, ý nghĩa của việc tu tập là để giúp tâm thoát khỏi phiền não hay vọng tưởng, và đó là ý nghĩa của việc thực hành Pháp. Vì vậy, động lực tích cực và hành vi tích cực là điều cần thiết ở đây, bởi vì khi càng có động lực và hành vi tốt đẹp hơn, thì việc tu tập Pháp sẽ trở nên hữu hiệu hơn.
25/03/2022(Xem: 4070)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả, vì ước nguyện thành tựu quả vị hoàn hảo và giác ngộ viên mãn, vì lợi lạc của tất cả bà mẹ hữu tình, rộng lớn như không gian bao la. Hãy điều chỉnh động lực lắng nghe giáo pháp bằng tư tưởng đặc biệt này.
11/03/2022(Xem: 4631)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên? Câu trả lời theo sử Phật Giáo: đó là bài Kinh vô ngôn, nội dung bài Kinh là lòng biết ơn. Lúc đó, Đức Phật đã bày tỏ lòng biết ơn cây Bồ Đề (cây Pippala), nơi Ngài ngồi dưới cội cây và được che mưa nắng nhiều tuần lễ cho tới khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác. Một điểm đặc biệt: biết ơn nhưng không dính mắc, vẫn luôn luôn nhìn thấy thế giới này trong thực tướng vô ngã.
11/03/2022(Xem: 6302)
Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Bát cháo sữa của nàng thôn nữ Sujata tuy giá trị rất nhỏ, nhưng mang lại lợi ích cho nhân loại và quả địa cầu là rất lớn, vì nhờ đó mà Sa-môn Gautama không chết do kiệt sức. Những giúp đỡ nho nhỏ, từ thiện nho nhỏ, đôi lúc có giá trị lớn & có ý nghĩa lớn. Học theo gương hạnh của Sujata, chúng con, chúng tôi nguyện làm tất cả việc thiện bằng các điều kiện có thể, nhằm xoa dịu phần nào sự khốn khó của tha nhân trong thời buổi nhiều khó khăn này..
08/03/2022(Xem: 11862)
Qua thông tin của truyền thông đại chúng ( các đài truyền Úc và Vietface tivi) suốt 2 tuần qua tiểu bang New South Wales và Queensland, Úc Châu, đã hứng chịu những cơn mưa như trút nước chưa từng có trong nhiều thập niên qua, từ đó dẫn đến những cơn lũ lụt lớn, khiến cho hàng nghìn người phải sơ tán và nước lũ cũng cuốn trôi nhiều tài sản, gia súc, phá hủy các tuyến đường giao thông giữa 2 tiểu bang miền đông nước Úc này. Riêng tại New South Wales, có hơn 11 vùng hiện bị ngập nước là: Chipping Norton, East Hills, Georges Hall, Holsworhy, Lansvale, Milperra, Moorebank, Warwick Farm, Sandy Point, Pleasure Point, Picnic Point.Trong khi tại tiểu bang Queensland có hơn 18.000 ngôi nhà ở phía đông nam Queensland được cho là đã bị ngập lụt, và gần 60.000 ngôi nhà khác trên toàn khu vực bị mất điện. Tính cho đến giờ này chúng tôi đang viết thư ngỏ này vào 9 giờ sáng 8/3/2022, tiểu bang Queensland có 13 người chết và NSW có 4 người tử vong vì trận lụt kinh hoàng này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]