Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22. Một cuộc biến động chính trị

27/11/201311:55(Xem: 19867)
22. Một cuộc biến động chính trị

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An



22. Một cuộc biến động chính trị





Đầu năm 1941 nhiếp chính Reting Rinpoche tạm thời ngừng công việc của mình vì năm nay là năm không may mắn hay "năm hạn" của ông. Ông trao quyền lèo lái chính phủ cho Taktra Rinpoche và lên một chương trình hành hương chiêm bái Phật tích Ấn Độ.

Lúc đó Taktra bảy mươi tuổi và là người khó tính. Ông là một trong những thầy giáo của Đức Đạt Lai Lạt Ma, và con trai tôi sợ ông. Cậu bé đã nói nhỏ với tôi "Amala (mẹ), Taktra Rinpoche thật đáng sợ". Ông thường cầm một cái roi bằng lụa, và có lần ông đánh Lobsang Samten vì đã gây ồn ào. Ông không cho Lobsang Samten ở cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma mà phải đi tới trường học và sau đó tới sống ở tu viện với anh của mình, Taktser Rinpoche (Norbu).



Dalai_Lama (85)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn


Taktra đặt ra những điều lệ mới cho việc viếng thăm Đức Đạt Lai Lạt Ma ở cung điện Potala. Trước đây tôi có thể đến thăm con trai bất cứ lúc nào tôi muốn, nhưng bây giờ Taktra cho chúng tôi biết là con gái tôi và tôi sẽ không được đến thăm Đức Đạt Lai Lạt Ma thường như vậy nữa, và khi nào chúng tôi đến thăm ngài, một người của ông ta sẽ đi cùng với chúng tôi trong cuộc thăm viếng, vì ông ta không muốn chúng tôi gặp nhau riêng tư. Hội Đồng Bộ Trưởng Kaskag tổ chức một cuộc họp về vấn đề này. Kashu Kungo phản đối điều lệ này, ông ta nói rằng mẹ và chị của Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ khó chịu khi có người khác đi cùng với mình trong cuộc viếng thăm. Taktra nổi giận tới mức ra lệnh bắt giam Kashu Kungo ngay.

reting-rinpoche3
reting-rinpoche2reting-rinpocheĐại sư Reting Rinpoche , Vị nhiếp chính lãnh đạo Tây Tạng trong thời gian
Đức Đạt Lai Lạt Ma chưa trưởng thành



Bà Kashu tới gặp tôi, xin tôi làm một điều gì đó để giúp chồng bà. Tôi liền viết một lá thư cho nhà giam, nói với họ rằng Kashu Kungo bị bắt vì bất đồng ý kiến về chính sách chứ không có bất kỳ tội lỗi nào cả. Tôi yêu cầu họ đối xử tử tế với ông ta. Sau đó tôi nghe nói bức thư của tôi đã có hiệu lực phần nào. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma đến tuổi cầm quyền, lúc đó quyền lực của Taktra chấm dứt, tất cả những tù nhân chính trị bị bắt trong thời Taktra đã được trả tự do. Trong thời Taktra nhiếp chính, Đức Đạt Lai Lạt Ma không có quyền lực gì cả, Taktra là người có quyền lực nhất nước.

Taktra_Rinpoche

Taktra Rinpoche

Lạt ma Reting đã yêu cầu đại sư Taktra làm nhiếp chính trong ba năm, sau đó quyền lực sẽ được giao lại cho đại sư Reting. Nhưng khi thời hạn ba năm chấm dứt và Reting muốn lấy lại quyền nhiếp chính, Taktra không chịu trả, dù Reting đã đến gặp ông ta ba lần. Reting bối rối tới mức ông nói mình sẽ đi hành hương ở Tsongkha, Ấn Độ và Trung Hoa. Ông nói với chúng tôi rằng ông không thể ở lại Lhasa, vì tình trạng rất xấu. Những người thân cận của ông xin ông ở lại. Chồng tôi và tôi cũng muốn ông ở lại và cuối cùng ông đã làm theo lời của chúng tôi.



Thường thì trong "năm hạn", hay "ka", người ta bị gãy chân hoặc gặp một tai nạn nào đó, nhưng năm xui xẻo của Reting bắt đầu một loạt những sự kiện mà rốt cuộc cho thấy là nguy hiểm đến chết người. Một năm sau khi cố gắng đòi lại quyền lực, ông bị bắt giam, và hai tháng sau đó chúng tôi được tin ông đã chết trong nhà tù, không lâu sau khi chồng tôi qua đời vào năm 1947. Nhiều người tin rằng ông đã bị ám sát. Trong thời Reting làm nhiếp chính, ông đã ra lệnh móc mắt Lungshar[1], và người ta đồn con trai của Lungshar đã âm mưu giết Reting để trả thù. Trong đêm Reting chết, vào khoảng một giờ sáng, vệ binh cung điện Potala nghe thấy những tiếng kêu cứu lớn phát ra từ hướng nhà tù. Người ta không bao giờ biết rõ chi tiết về cái chết của ông, nhưng nhiều người nói chắc chắn là ông bị giết. Những tờ bố cáo của chính quyền được dán đầy Lhasa nói rằng nếu có người nào đồn rằng cái chết của Reting không có nguyên nhân tự nhiên, người đó sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.

Gia đình chúng tôi đã giao tiếp thân mật với đại sư Reting. Trước khi bắt giam Reting, Hội Đồng Bộ Trưởng Kashag đã muốn gọi con trai và con rể của tôi từ Trung Quốc về, họ bảo tôi nên cho hai đứa con này về Lhasa. Kashag muốn cho các con trai và con rể của tôi vô tù, nhưng họ không thể làm gì được vì không có người con nào của tôi ở Lhasa. Tôi cũng đã nghe nói Kashag muốn cho con gái tôi và tôi trở về Tsongkha, như vậy có thể phân tán gia đình chúng tôi và diệt trừ một sự chống đối có hại cho quyền lực của họ. Một điều có thể đã gây chướng ngại cho mưu đồ của Taktra và Hội Đồng Kashag của ông ta là Ma Pu Fang, tổng trấn Amdo người Trung Hoa, vốn là bạn của chúng tôi, và ông ta sẽ dùng quyền lực của mình để hỗ trợ chúng tôi. Do vậy họ đã phải nghĩ lại hành động của họ.

Đại sư Reting Rinpoche và chồng tôi là những người bạn rất thân. Họ đều thích ngựa. Vụ bắt giam và giết Reting sẽ không dễ dàng như vậy nếu chồng tôi còn sống, vì ông có nhiều nguồn lực để nhờ cậy hơn tôi, và ít nhất ông cũng can thiệp để vụ bắt giam không diễn ra suôn sẻ như vậy. Đó là lý do người ta cho rằng chồng tôi đã bị đầu độc.

Trong khoảng thời gian này có lời đồn Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là vị Đạt Lai Lạt Ma thật, và đã có sự lầm lẫn trong việc chọn vị Đạt Lai Lạt Ma. Người ta nói rằng Ditru Rinpoche mới là vị Đạt Lai Lạt Ma thật. Ditru Rinpoche là con của một thân nhân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba. Cuối cùng mọi người quyết định để hai cái tên vào trong một cái bình, rồi đặt ở trước hình Tổ Sư Tống Khách Ba (Je Tsongkhapa,1357-1419, là vị Tổ sư của phái Hoàng Mạo và định lập chế độ chuyển thế tái sanh của Đạt Lai Lạt Ma), rồi lắc cái bình cho một cái tên rơi ra ngoài ba lần, và thế là nhiếp chính Taktra và Hội Đồng Kashag không thể nói gì cho mình được nữa. Lúc đó Đức Đạt Lai Lạt Ma mười bốn tuổi.

Đó là một giai đoạn rất khó khăn. Chồng tôi đã qua đời và các con trai của tôi ở xa, tôi chưa bao giờ cảm thấy cô đơn và yếu ớt đến như vậy. Tsarong Shape ("shape" là một bộ trưởng nội các) đến thăm tôi trong khoảng thời gian này và bảo tôi nên thật thận trọng vì Tây Tạng đang ở trong tay của những người xấu. Ông nói rằng chỉ có quỷ thần mới biết chính phủ đang muốn làm cái gì. Đây là thời kỳ rắc rối nhất trong thời gian tôi sống ở Lhasa, cho đến khi người Trung Hoa bắt đầu xâm chiếm Tây Tạng[2].







[1]Tsipon Lungshar là một viên chức cao cấp của thuế vụ và là người đứng đầu phong trào cải cách trong thời Reting.

[2]Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, cuộc tranh chấp giữa Reting và Taktra có tính chất về một cuộc tranh chấp quyền lực cá nhân hơn là tính chất một cuộc tranh chấp lâu dài giữa hai phe chính trị. Phe của Taktra cố gắng áp đặt sự cai trị mạnh mẽ của trung ương lên dân chúng mà một số người chống lại. Những người ủng hộ Reting muốn giành lại quyền lực của họ và tìm sự hỗ trợ của Trung Hoa Quốc Gia, một điều mà nhiều người dân Tây Tạng xem là có hại cho chính quyền của họ. Trong cuộc tranh chấp, có một trái bom khủng bố được đưa tới văn phòng của Taktra, và Reting bị bắt với tội chủ mưu vụ này. Tiếp theo là cuộc nổi dậy của các tu sĩ trung thành với Reting ở tu viện Sera, trong đó vị viện trưởngđã bị giết. Chính phủ đã can thiệp để dẹp cuộc nổi loạn này.

Quân đội Giải Phóng Nhân Dân (Cộng Sản Trung Quốc) lợi dụng sự hỗn loạn và chia rẽ này để xâm chiếm Tây Tạng về mặt quân sự và chính trị. Việc lãnh đạo Tây Tạng đã xáo trộn trong mười bảy năm của thời kỳ nhiếp chính, từ khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba qua đời cho đến khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn cầm quyền. Trong thời kỳ chuyển tiếp đó, cuộc tranh chấp quyền lực của các phe phái đã diễn ra dữ dội.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16064)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3733)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6105)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6305)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 4004)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8340)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5610)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15618)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10838)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7929)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]