Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

21. Con cháu và trở thành quả phụ

27/11/201311:54(Xem: 19809)
21. Con cháu và trở thành quả phụ

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An


21. Con cháu và trở thành quả phụ




Vào năm 1940, hai năm sau khi chúng tôi đến Lhasa, khi còn trú ngụ ở cung điện Vườn Ngọc Mùa Hè Norbulinga, tôi sinh một con gái, Jetsun Pema. Tên của cô là do Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt. Sau đó tôi có thêm hai con trai, một người con đã chết vào năm 1945, khi mới được hai tuổi. Cả hai người con này đã chào đời ở Changsesar. Người con còn sống tên là Tendzin Choegyal, sinh năm 1946.



Dalai Lama and Pema

Người con chết sớm tên là Tenzin Chota. Cậu bé này rất hiếu động. Cậu thường đi vô mấy căn phòng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, làm đổ tất cả những món đồ. Cậu chết sau khi bị bệnh phổi nhiều tháng. Cậu sắp chết chúng tôi có mời vị tiên tri Gadong đến coi bói.

8.dalailama-5-dalailama-thu-13

Theo tục lệ cả hai vị tiên tri Gadong và Nechung sẽ xuất thần cùng với nhau trong phòng riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong những lúc khẩn cấp. Một khi vị tiên tri (hay đồng tử) qua đời, một vị khác sẽ được đưa vào chức vụ ngay. Vào lúc được chọn, vị đồng tử ứng viên được đưa đến trước Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài sẽ trắc nghiệm năng lực của người này bằng cách liệng mấy hạt gạo vào ông ta. Nếu năng lực của ông ta không mạnh, việc này sẽ làm cho nặng lực của ông ta tàn lụi, còn nếu ông ta có năng lực lớn, việc này sẽ làm cho năng lực của ông ta mạnh thêm. Vị tiên tri quốc gia Nechung là của Đức Đạt Lai Lạt Ma và của chính phủ. Vị này là một tu sĩ và không được đi tới nhà thường dân. Vị tiên tri Gadong có thể tới một số nhà tư nhân để coi bói, thí dụ như nhà của chúng tôi. Vị này là cư sĩ, có vợ con và có tu viện riêng ở gần tu viện Drepung. Tôi đã tiếp xúc nhiều lần với vị tiên tri Nechung và vị tiên tri Gadong.

Theo tục lệ, vào ngày trước vị tiên tri nhập vào trạng thái xuất thần, vị này phải làm phép tịnh hóa. Vị này phải trai giới, không ăn thịt và hành, cả ngày thanh lọc cơ thể, vì nghi thức tiên tri rất nặng nhọc và cần nhiều năng lượng. Nếu không thanh lọc cơ thể, vị này sẽ chịu đau đớn nhiều trong khi và sau khi xuất thần. Sự đau đớn này sẽ kéo dài mấy ngày, cứ như là vị này đang bị đánh bằng roi thật mạnh.

Trong khi chúng tôi cầu nguyện cho vị tiên tri Gadong đến nhà, và thiết trí bàn thờ gia tộc, tôi ôm con trai của tôi trong vòng tay. Cậu bé nhìn lên tôi một cách nghiêm trọng, thỉnh thoảng lại thở dài. Khi vị tiên tri Gadong bước vô phòng, con trai của tôi đưa mắt nhìn ông ta rồi tức khắc qua đời. Tôi bảo vị tiên tri cứ tiếp tục việc coi bói, dù cậu bé đã chết.

Vị tiên tri ngồi vào chỗ với hai người phụ tá đứng hai bên nâng cái mão của ông. Cái mão có quai cột dưới cằm và được trang trí dị thường với những lông công, khăn lễ, vàng và bạc, nó nặng tới mức hai người phải nâng nó lên, nếu không vị tiên tri không thể ngẩng đầu lên được. Bên ngoài cái áo "chuba" có tay rộng, ông ta mang một tấm che ngực trang trí cầu kỳ. Hai mươi tu sĩ trong phòng bắt đầu niệm chú theo nhịp của tiếng chũm chọe và tù và để thỉnh cầu thần linh nhập vào vị tiên tri.

Sau khoảng mười phút vị tiên tri Gadong có vẻ cảm thấy sự ứng nghiệm của lời cầu nguyện và bắt đầu bất tỉnh, tiếp theo là thân của ông ta run rẩy. Ngay khi sắp đứng dậy và xuất thần, mặt của ông sưng phồng và trở nên gần như tím ngắt. Vì vậy quai mão của ông bị căng ra, gần như bóp nghẹt ông. Hai người phụ tá tức khắc tháo lỏng quai mão để ông có thể thở được.

Ông cầm một mũi tên ở tay trái và một thanh kiếm ở tay phải. Ông đứng lên rồi lạy xuống ba lần trước bàn thờ và bắt đầu nhảy điệu "cham". Ông xoay ba lần quanh phòng, bắn mũi tên lên trên không, rồi liệng mũi tên đi. Ông múa thanh kiếm, làm cho mọi người lùi lại ra xa. Nếu không những người ở xung quanh, có thể đã bị ông chém trúng. Đây thật là một cảnh tượng mạnh bạo.

Sau điệu múa "cham", ông bắt đầu nói. Một người thư ký ghi những lời ông nói vì những người không biết ngôn ngữ của vị tiên tri không hiểu ông đang nói gì. Khi nói xong, ông gục xuống và nằm như đã chết rồi. Tức khắc hai người phụ tá bỏ mão của ông ta ra. Một lát sau ông hồi tỉnh, rên lớn tiếng vì đau đớn và thở dốc như tất cả sức lực của mình đã bị trút cạn. Cuộc xuất thần kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ.

Trong lúc xuất thần vị tiên tri Gadon nói rằng đứa con trai đã chết của tôi là một nhân vật cao cấp và con tôi đã cầu nguyện rằng dù qua đời cậu ta sẽ trở về với cha mẹ mình. Tôi không muốn tin lời phán của vị tiên tri. Tôi nói rằng bây giờ tôi đã già rồi, bốn mươi lăm tuổi, tôi không muốn sinh con nữa. Tốt hơn hãy để con gái của tôi sinh ra hóa thân của đứa con trai mới chết của tôi. Trước khi con trai tôi chết, con gái của tôi đã sinh một bé gái. Lúc đó con trai tôi đang bệnh nặng, nhưng nhất định đòi xem đứa cháu gái của mình, vì vậy tôi đưa cậu ta tới chỗ bé gái sơ sinh. Cậu ta nhấc bàn tay của cô cháu gái lên thật nhẹ nhàng rồi vuốt ve nó. Ba ngày sau cậu ta chết.

Tôi đã thường xuyên nằm mộng thấy những đứa con đã chết của mình, nhưng sau khi Tenzing Chota chết, tất cả những giấc mộng như vậy không xuất hiện nữa. Chúng tôi đã đặt thi hài cậu bé vào trong một cái hòm nhỏ và quàn ở trong nhà, vì người ta nói rằng cậu bé là một người thiêng liêng, chúng tôi không bỏ thi thể của cậu ta. Tôi hỏi ý kiến của Gonsar Rinpoche, một vị lạt ma già thường đến tụng kinh cầu nguyện cho nhà chúng tôi, và nhờ ông coi bói. Tôi xin ông cho biết lý do nào tôi không còn thấy những giấc mộng đó nữa, phải chăng vì chúng tôi đã để Tenzing Chota ở trong một cái hòm nhỏ nên thần thức của cậu bé không thể rời khỏi thể xác.

Gonsar Rinpoche trả lời rằng chắc chắn không phải như vậy, vì cậu bé đã tái sinh rồi, và tái sinh ở nơi gần tôi. Vị lạt ma nói rằng khi một người đã tái sinh, những giấc mộng về người đó không diễn ra nữa. Tôi hỏi ông hậu thân của cậu bé là ai, có phải là một trong những đứa con của những nhân viên phục vụ hoặc cháu gái mới sinh của tôi. Ông nói rằng ông không nghĩ như vậy, nhưng con trai tôi đã tái sinh làm một bé gái. Ông nói chắc chắn bé gái này sẽ không sống lâu, và sau khi bé gái này chết, con trai tôi sẽ tái sinh làm một bé trai một lần nữa.

Tôi vẫn cho rằng đứa con của con gái tôi là kiếp tái sinh đó, nhưng Gonsar Rinpoche không đồng ý. Ông chỉ nói rằng con gái của con gái tôi sẽ không sống lâu và bảo chúng tôi hãy dành nhiều tình cảm cho con bé. Ông nói rằng cô bé đó cần có sức mạnh để sống lâu. Ông cũng bảo chúng tôi cầu nguyện cho cô bé. Mấy ngày sau cháu gái của tôi bệnh nặng trong bảy ngày. Vợ chồng con gái tôi quyết định mang cháu bé tới Gyatso Shikar, hy vọng cháu sẽ khỏe hơn ở đó. Trong vài ngày trước khi cháu đi, cháu im lặng, không khóc hay nhỏ nước mắt. Nhưng khi họ khởi hành thì cháu bé la khóc cứ như đi khỏi nhà là một sự tra tấn. Cháu sống thêm ba ngày nữa rồi chết ở Gyatso.

Chồng tôi và tôi đã tới Gyatso, nơi cháu gái của chúng tôi vẫn đang cố gắng để sống, hy vọng cháu bé sẽ thích trông thấy lại chúng tôi. Khi chồng tôi tới, cháu nhận ra và khóc òa, ông ngoại cho cháu uống một chút sữa. Chúng tôi mời các vị lạt ma đến để tụng kinh cầu an cho cháu, tới phần cuối của buổi lễ thì cháu đã qua đời. Khi xác của cháu được tắm để mai táng, chúng tôi nhận thấy khắp vùng sống lưng của cháu bị thâm tím. Lúc đó chúng tôi mới biết là cháu bị gãy sống lưng.

Sau khi cháu ngoại của tôi chết mấy ngày, tôi lại nằm mộng thấy con trai đã chết của mình, Tenzing Chota. Cậu bé ở bên trong một cái hang lớn và khỏa thân. Tôi đưa hai tay ra để giữ cậu ở bên mình. Khi tôi nói với chồng tôi về giấc mộng này, ông nói rằng vị tiên tri Gadong đã phán rằng con trai tôi sẽ tái sinh cho tôi và có lẽ tôi sắp có thai một lần nữa. Tôi không đồng ý như vậy, vì tôi không muốn mình lại sinh con.

Dalai Lama and Tendzin

Dù không muốn, tôi cũng sinh con trai Tendzin Choegyal vào năm sau. Các vị Lạt Ma của tu viện Chomo Lungnga đến nói với tôi rằng viện trưởng của họ đã qua đời và con trai của tôi là hậu thân của vị đó. Trong khoảng thời gian đó, các tu sĩ của tu viện Drepung cũng đến nói với tôi rằng con trai của tôi là hóa thân của người thầy của họ. Tôi không chịu để con trai tôi đi tới một tu viện nào trong hai tu viện đó, và tôi nói rằng nó không phải là hóa thân của ai cả, và tôi sẽ cho nó đi tu để phụng sự Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Sau đó con trai út của tôi bị chứng phồng da mãn tính, có khi khỏi rồi lại tái phát. Người ta nói rằng con tôi bị như vậy vì tôi đã không chịu để cho cậu ta làm một vị "tulku", tức là vị thầy hóa thân. Vì vậy, sau khi lưỡng lự, tôi đồng ý cho cậu đi tu tại tu viện Chomo Lungnga và trở thành ngài Ngari Rinpoche. Vị tiên tri Gadong bảo tôi làm như vậy, nếu không con trai của tôi sẽ không sống lâu. Ngay khi tới tu viện, tất cả mọi bệnh tật của cậu đều chấm dứt.


Tendzin Choegyal lúc 3 tuổi


Bà Diki Tsering
với trang phục truyền thống trước cung điện Potala

Con trai út của tôi tới tu viện Chomo Lungnga lúc được ba tuổi rưỡi. Cậu ở đó ba năm rồi chuyển đến tu viện Drepung ở ba năm nữa. Tu viện Chomo Lungnga ở cách nhà chúng tôi ba giờ đi đường. Tôi thường đón cậu về nhà nghỉ một tuần, cả khi cậu sống ở tu viện Drepung. Mẹ của tôi đã ở bên cậu khi cậu đi tới Chomo Lungnga, và Bà đã khóc rất nhiều vì cậu còn quá nhỏ. Tôi cũng rất buồn khi phải xa con út của mình. Về sau tôi cho cậu đi Trung Quốc cùng với tôi.

Năm 1947, một năm sau khi Tendzin Choegyal chào đời, chồng tôi qua đời. Cái chết của ông là một thử thách lớn lao và khó khăn, tôi vinh hạnh mà nói rằng tôi đã đương đầu với sự thử thách này một cách can đảm và cương quyết, không bao giờ để cho ai phá hoại tinh thần của mình, dù nhiều người có thế lực tìm cách lợi dụng sự ngây thơ và thiếu học của tôi.

Chồng tôi đã đi thăm khu đất Damaka Shikar một ngày. Khi trở về ông bị ngã bệnh rất nặng. Ông cảm thấy rất đau ở trong bụng. Ông đau như vậy trong một tháng, trở nên gầy yếu kinh khủng và sau đó ông qua đời. Khi ông tắt thở, tôi thấy máu chảy ra từ mũi và hậu môn của ông. Viên "chang-zo" (quản lý) của khu đất mà chồng tôi tới thăm, bị người ta nghi ngờ là người đã đầu độc chồng tôi. Lúc qua đời chồng tôi chỉ mới bốn mươi tám tuổi.

Lúc đó hai con trai Taktser Rinpoche (Norbu) và Lobsang Samten đã về thăm chúng tôi. Có lẽ chồng tôi biết mình sắp chết nên ông bảo tôi sai người giúp việc lấy củi ra khỏi lò sưởi "kang", vì ông đang cảm thấy ấm lạ thường. Rồi ông nói là không muốn đắp mền nữa, dù lúc đó là tháng giêng, trời rất lạnh. Mười lăm phút sau tôi được gọi trở về căn phòng chồng tôi đã qua đời. Lúc đó là nửa đêm.

Tôi tức khắc gọi cả nhà thức dậy, tụ tập ở phòng của chồng tôi để cầu nguyện lần cuối cùng cho ông. Các vị lạt ma được mời đến tụng niệm cho người quá cố. Theo tục lệ, chồng tôi được đặt ở thế ngồi hoa sen và hai tay chắp lại. Thi hài của ông được quàn ở nhà trong hai ngày theo lời chỉ dẫn của vị chiêm tinh.

Theo tục lệ, tôi cởi bỏ hết tất cả những đồ trang sức, dải đeo tóc và cả cái "hari" của tôi. Từ khi chồng tôi qua đời, tôi chỉ đeo cái "hari" trong những dịp quốc lễ, và ngay cả trong những dịp lễ này, tấm gấm ở phần lưng cũng được gỡ ra, theo tục lệ của Amdo khi chồng qua đời.

Trong hai ngày, các tu sĩ đến tụng kinh trong nhà. Vào sáng ngày thứ ba, quan tài của chồng tôi được đưa đi hỏa táng ở Sangda, cách nhà tôi ba giờ đi bộ và quan tài được khiêng tay. Tro cốt của chồng tôi được đưa về cho tôi, vì ông đã bày tỏ ý muốn di hài của mình được chôn ở bên cạnh mộ của cha mẹ ông ở Tsongkha. Ông cũng bảo tôi phải làm sao để ông không bị thủy táng hay điểu táng.

Khi nhận được hũ tro cốt, tôi bọc trong một tấm lụa màu vàng rồi đặt vào trong một hộp gỗ ở phòng thờ. Mấy tháng sau khi con trai tôi, Taktser Rinpoche (Norbu) đi Tsongkha, cậu ta mang cái hộp theo, đeo nó ở trên lưng trong suốt đường đi vì nếu có người nào khác đụng vào nó, bị xem là xui xẻo. Khi tới Tsongkha ba tháng sau, cậu ta tụng kinh cầu siêu cho cha mình ở tu viện Kumbum rồi chôn hũ tro cốt đó ở cạnh mộ cha mẹ của chồng tôi.

Ở Changseshar, chúng tôi tụng kinh trong suốt bốn mươi chín ngày. Bốn mươi chín ngày là thời gian quyết định cho kiếp tái sinh. Người ta nói rằng trong bốn mươi chín ngày thần thức của người quá cố vẫn ở trong nhà của mình. Thời kinh cầu siêu trong ngày thứ bốn mươi chín là lớn nhất và cầu kỳ nhất, vì người quá cố sẽ tái sinh trong ngày này. Tất cả những dải khăn tang được tháo ra và đốt đi, người ta mặc y phục mới và đeo những món trang sức. Nhưng tôi không đeo một món trang sức nào trong một năm.

Theo tục lệ, tất cả những vật sở hữu của người quá cố được mang ra tặng cho người khác, để thần thức của người quá cố không còn gì để quyến luyến mà ở lại trong nhà. Vì vậy, tôi mang cho tất cả những y phục, chăn mền, ly chén của chồng tôi. Không còn gì để gợi nhớ và gây quyến luyến.

Chồng tôi qua đời để lại con gái và tôi cô đơn ở Changseshar. Lúc đó con trai tôi Gyalo Thondup đang ở Trung Quốc với con rể của tôi. Con trai Norbu đang ở Tsongkha.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2010(Xem: 5631)
“Nguyện lực” hay “quyết định lực” là 01 trong 10 ba-la-mật (pāramī) (1) theo kinh điển truyền thống. Nó là năng lực của ý chí tiếp sức cho tư tác (cetanā) hoàn thành tâm nguyện của người học Phật và tu Phật. Chư Chánh Đẳng Giác, Độc Giác, Thinh Văn Giác đều có nguyện lực và đều có ba giai đoạn: Nguyện trong tâm (ý), nguyện thành lời (khẩu) và nguyện bằng hành động (thân) ba-la-mật. Như đức Phật Sakyā Gotama đã phát nguyện ở trong tâm suốt 7 A-tăng-kỳ, nguyện thành lời suốt 9 A-tăng-kỳ, và nguyện bằng hành động ba-la-mật suốt 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp(2). Như vậy là đức Phật Sakyā Gotama phải thực hành ba-la-mật trải qua 24 vị Phật tổ, kể từ Phật Dīpaṅkāra (Nhiên Đăng) cho đến Phật Kassapa (Ca Diếp).
22/10/2010(Xem: 10298)
Từ thời Đức Thế Tôn còn tại thế, đạo Phật được truyền bá một cách sâu rộng khắp trên lưu vực sông Hằng cũng như qua các thị trấn và những quốc gia thời bấy giờ của xã hội Ấn Độ, quê hương của Phật. Phật pháp được tuyên thuyết bởi Đức Phật, cũng như các hàng Thánh chúng đến từng nhà, từng người, từng cộng đồng trong xã hội. Phật pháp đã tạo sự bình an cho con người, đã xây dựng một nếp sống đạo đức, lễ nghi hướng thượng cho tất cả.
21/10/2010(Xem: 7128)
Ngày 8 tháng 12 năm 2003 tại Chùa Than Hsiang, Peang, Malaysia trong Khóa Nhập thất Trì tụng 100 Triệu Thần chú Sáu-Âm 1. Là Phật tử, chúng ta thực hành để làm lợi lạc cho bản thân và những người khác. Vì thế, chúng ta thực hành trì tụng thần chú Sáu-Âm (Om Mani Padme Hung). Tuy nhiên, khi chúng ta ăn thịt – thịt gà, thịt heo, cá hay trứng trong đời sống hàng ngày của ta, chúng ta đang tạo vô số nghiệp xấu.
21/10/2010(Xem: 8433)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
21/10/2010(Xem: 6951)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
21/10/2010(Xem: 10045)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam và hiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo được các vua chúa ủng hộ, mà cũng có lúc bị một số người bài xích. Nhưng chung cục, Phật giáo vẫn chịu đựng được những thử thách ấy để mà tồn tại. Như thế, chứng tỏ Phật giáo phải tiềm tàng nhiều khả tính, mà một trong những khả tính có sức cảm hóa con người mạnh mẽ nhất, đó là đức tính từ bi bao dung của đạo Phật.
21/10/2010(Xem: 7413)
Khi vừa mới một tuổi thì Dagpo Rimpoché đã được Đức Đạt-Lai Lạt-Mathứ XIII xác nhận là vị hóa thân (toulku) của Ngài Mã-nhĩ-ba (Marpa, 1012-1097)một vị Đại sư của Tây tạng và là thầy của Đại sư Mật-lặc Nhật-ba (Milarepa, 1052-1135).Dagpo Rimpoché sinh năm 1932, vào chùa từ lúc sáu tuổi, học tại các tu viện đạihọc danh tiếng nhất ở Tây tạng, tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Ngài rời Tây Tạngvượt sang Ấn vào năm 1959 và sau đó thì lưu trú tại Pháp từ năm 1960. Hiện nayDagpo Rimpoché là một gương mặt lớn của Phật giáo Tây tạng tại Âu châu.
20/10/2010(Xem: 5945)
Những điều nhỏ nhặt đang ghi nhớ
20/10/2010(Xem: 6433)
Brisbane, Australia - 11/06/2015, Ủy ban Công giáo Roman tổ chức buổi Cầu nguyện hòa bình thế giới tại Thành phố Brisbane, Queensland, Australia. Đáp lời mời đến tham dự với sự hiện diện của đức Đức Đạt Lai Lạt Ma, cùng chư tôn giáo phẩm Tăng già Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Nguyên thủy, Ấn Độ giáo, Do Thái giáo, Bahai . . .Phía Chính quyền địa phương có sự hiện diện của Ông Paul de Jersey, Thống đốc bang Queensland, Bà Shannon Fentiman, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đa văn hóa, Ông Ian Stewart, Ủy viên cảnh sát Queensland, Australia và hơn 800 đại biểu các lĩnh vực xã hội tham dự.
20/10/2010(Xem: 6788)
Một thưở đó, mây hỏi cùng cỏ lá gió chướng mùa, đời vắng lạc về đâu bàn tay mỏng, soi mòn tâm mưa nắng thu réo nguồn, lá cỏ có bâng khuâng? lối chiều nghiêng, khép lại bóng ưu phiền sờn tà áo, bụi đời trên vai cỏ có gì đâu, mảnh trăng vô lượng kiếp một giọt trăng, em- hơi thở vô cùng
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]