Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời của người biên tập

27/11/201309:51(Xem: 20427)
Lời của người biên tập

Lời của Người Biên Tập
Những kỷ niệm về bà Nội của tôi

Bản Việt dịch: TK. Thích Nguyên Tạng
Diễn đọc: Pt Quảng An







Kỷ niệm đầu tiên của tôi về bà Nội là khi tôi được bảy tuổi. Đó là năm 1959, khi tôi đang học ở St. Joshep’s College, một trường của Dòng Tên thuộc Thiên Chúa Giáo ở Darjeeling, Ấn Độ. Một hôm hiệu trưởng của trường là linh mục Stanford gọi tôi vào văn phòng của ông và nói: “Cậu bé, hôm nay là một ngày lịch sử. Cha mẹ cậu xin phép tôi cho cậu về nhà để ra ga xe lửa Siliguri đón Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài sẽ qua đó”. Đó là lần đầu tiên tôi được biết gia đình của mình là một gia đình đặc biệt.

Khi đến ga xe lửa, chúng tôi phải lách qua đám đông tụ tập để chào đón và chiêm ngưỡng Đức Đạt Lai Lạt Ma vừa mới trốn khỏi Tây Tạng và đến tị nạn ở Ấn Độ. Lúc đó tôi biết rằng mình là một phần của một sự kiện quan trọng. Đức Đạt Lai Lạt Ma là chú của tôi và tôi chưa bao giờ gặp Ngài trước đây. Mọi người xem Ngài như một vị Phật sống, và gọi bà Nội tôi là Gyayum Chemo, hay Mẹ Lớn. Bà có dáng điệu cao quý và nồng ấm phù hợp với danh hiệu đó. Chúng tôi gọi Bà là Mola (‘momo’ và ‘la’ là tên gọi tôn kính để gọi bà Nội hay bà Ngoại).

Khi mới đến Ấn Độ, Mola ở cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma ở thị trấn Mussoorie, sau đó bà Nội chuyển tới ở với chúng tôi ở Darjeeling. Bà thích ứng với đời sống ở Ấn Độ một cách bình thản và kiên nhẫn, vốn là những đức tính đã giúp Bà trải qua bao nhiêu thăng trầm. Bà luôn có mục đích sống rõ rệt, đó là chăm sóc và hướng dẫn con cháu của mình.

Qua chiến tranh, gian khó, bệnh tật và chết chóc, và dù có những bất lợi về chính trị và biên giới quốc gia, Bà vẫn là tảng đá lớn để gia đình của Bà bám vào. Bà là bến bờ yêu thương và luôn luôn an toàn.

Bà Nội là người dễ dãi và tử tế, nhưng cũng rất kỹ càng trong việc nuôi dạy các cháu của mình. Bà bắt chúng tôi phải ăn uống đúng cách, tức là ăn những món ăn của tỉnh Amdo, quê hương của Bà ở miền đông Tây Tạng, nơi Mẹ của Bà đã dạy Bà nấu ăn; Bà cũng dạy tất cả chúng tôi nấu ăn. Bà thường sửa soạn những bữa ăn và nướng bánh mì cho Đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng đồng thời Bà cũng dạy cho các thị giả của Ngài làm những món ăn của Amdo. Cho đến ngày nay Ngài vẫn dùng những món ăn mà Bà đã làm cho Ngài lúc Ngài còn nhỏ.

Bà Nội cũng giữ gìn những truyền thống và lễ nghi tôn giáo. Vào dịp Tết Nguyên Đán mọi người mặc quần áo mới và đẹp nhất. Khi còn nhỏ tôi thích mặc áo gấm “chuba” mà Mola gởi cho chúng tôi từ Tây Tạng. Nhưng sau năm 1959 khi người Tây Tạng kéo qua Ấn Độ, không có tiền hay tài sản gì cả, bà Nội bảo chúng tôi đừng mặc quần áo đẹp trong ngày tết nữa, nên thông cảm hoàn cảnh của những người tị nạn đó. Chúng tôi chỉ mặc vài bộ đồ mới và không phô trương những đồ trang sức đẹp.

Gyalo Thondup

Cha tôi, Gyalo Thondup & Đặng Tiểu Bình


Cha tôi, Gyalo Thondup, đã trở thành người anh cả trong gia đình, sau khi ông Nội qua đời. Ông là một trong những người chính yếu giúp Đức Đạt Lai Lạt Ma trốn khỏi Tây Tạng. Bà Nội nói với tôi rằng: Sau cha tôi, tôi sẽ là người gìn giữ danh tiếng của gia đình và đó là một bổn phận quan trọng. Đó là những truyền thống mà bây giờ tôi trao cho con gái của tôi. Đây có vẻ là những điều nhỏ mọn, nhưng tôi tin rằng chúng là những giá trị tạo thành một cá tính mạnh mẽ.

Bà Nội không chỉ chăm lo cho gia đình của mình mà còn nghĩ đến tất cả mọi người khác, dù là bạn bè, viên chức chính phủ hay thường dân. Nếu trông thấy những người Tây Tạng nghèo ở ngoài cửa sổ, Bà sẽ gọi họ đi vô trong nhà, nhìn mặt họ rồi hỏi “Tại sao mấy người có vẻ buồn quá vậy?”. Họ thường trả lời rằng họ không có tiền, và tức khắc bà Nội đặt vào tay họ một món tiền.

Mỗi sáng sớm nhiều người đứng xếp hàng ở cửa sau nhà chúng tôi để xin thực phẩm. Chúng tôi giữ những thùng gạo, bột mì và chúng tôi cho mỗi người một phần để dùng trong ngày. Những năm đầu tiên ở Ấn Độ, đó là thời kỳ khó khăn, và bà Nội đã làm hết sức trong khả năng của mình để giúp đỡ mọi người.

Một viên chức của chính phủ Hoa Kỳ ở cạnh nhà chúng tôi trong những năm tháng đó. Tôi tình cờ gặp lại ông ta vào năm 1979 ở Mỹ, và ông đã nói về bà Nội của tôi. Ông kể lại rằng khi vợ ông sinh đứa con đầu lòng, bà Nội đã nấu món canh gà rồi đưa qua cho bà ta. Tháng đầu tiên sau khi sinh đẻ người ta phải cẩn thận giữ gìn sức khỏe của mình. Người Mỹ này không bao giờ quên lòng tốt của bà Nội đối với một người mà Bà chưa hề quen biết.

Mọi người đều kính trọng bà Nội vì Bà không bao giờ tự cao mà cũng không bao giờ tự hạ mình trước người khác. Bà luôn luôn đối xử với mọi người một cách hiểu biết. Cả những người giúp việc trong nhà cũng yêu kính Bà. Bà không bao giờ ngồi một chỗ ra lệnh, mà tự tay làm công việc và hướng dẫn họ làm việc.

Bà Nội là người mộ đạo. Việc đầu tiên Bà làm vào mỗi buổi sáng là lễ Phật, tụng kinh cầu nguyện và dâng cúng các vị thần Thổ địa. Bà là tấm gương sáng ngời hướng dẫn chúng tôi những giáo lý căn bản trong đời sống tâm linh. Tôi có một bể cá kiểng, và nuôi cá bằng trùn đất. Bà Nội dạy để cho loài thú ăn thịt lẫn nhau là tội lỗi, vì vậy sau đó tôi chỉ cho cá ăn thực phẩm khô để tránh phạm tội tự tay sát sanh.

Bà Nội cũng thích cá. Bà và tôi thường ngắm cá kiểng cùng với nhau và đặt tên cho chúng. Bà nhận xét tính nết của mỗi con cá. Con nào dữ và con nào hiền. Bà dạy chúng tôi hiểu biết về đời sống.

Từ tháng ba đến tháng mười một chúng tôi đi học ở trường nội trú. Cuối năm học, cả nhà đi tới Calcutta để nghỉ mùa đông. Đã hơn sáu mươi tuổi nhưng bà Nội vẫn là người cởi mở và thích vui chơi. Bà đưa chúng tôi đi chơi và thưởng thức những món ăn Ấn Độ bán rong ở ngoài đường. Bà thích xem chiếu bóng và thường dẫn chúng tôi đi xem với Bà. Bà đặc biệt thích phim tình cảm ca vũ nhạc Ấn Độ. Tất nhiên phim Ấn Độ nói tiếng Hindi nên Bà không hiểu những lời đối thoại, nhưng chúng tôi giải thích tình tiết trong phim cho Bà.

Bà là người kể chuyện rất hay. Bà thích làm cho chúng tôi sợ bằng sách kể chuyện ma mèo ăn cắp của người giàu rồi mang cho người nghèo. Bác Thubten Jigme Norbu của tôi đã đi Hoa Kỳ để dạy ở Đại Học Indiana. Khi bà Nội đi thăm Bác ở đó, Bà thích xem những phim kinh dị trên truyền hình Mỹ.

NorbuandbrotherDalaiLama

Bác Norbu & Đức Đạt Lai Lạt Ma

Mỗi khi em trai của tôi và tôi cãi nhau, bà Nội lại can và phân xử ai phải ai trái. Chúng tôi tôn trọng quyết định của Bà vì Bà luôn luôn công bằng. Bà không bao giờ bắt chúng tôi phải nghe lời Bà hay phải làm một việc gì cho Bà. Tình cảm nồng ấm của Bà làm cho chúng tôi cảm thấy an toàn.

Bà Nội có một cái tủ lớn đựng những món đồ của Bà. Bà xếp đặt mọi thứ cẩn thận và ngăn nắp. Ở trong ngăn kéo của cái tủ luôn luôn có kẹo bánh cho các cháu của Bà. Khi nào muốn ăn cái gì chúng tôi xin là Bà sẽ cho ngay.

Tôi khâm phục sức mạnh thể chất cũng như sức mạnh tâm linh của bà Nội. Chúng tôi xây một căn nhà mới có nhiều bậc cấp dẫn xuống sân nhà. Một hôm bà trợt chân té xuống chín mười bậc. Chúng tôi chạy tới, thấy Bà nằm ở dưới đất. Bà đã già và bị thương ở lưng, nhưng ngay lúc đó Bà đứng dậy nói “Bà không sao cả”. Bà cảm thấy đau rất ít. Bà ít khi bị bệnh và Bà biết giữ gìn sức khỏe rất tốt. Nhiều người con của Bà đã chết non nhưng Bà luôn luôn cố gắng chịu đựng những nỗi đau này. Bà Nội đã sinh hạ đến mười sáu người con, nhưng chỉ có bảy người còn sống.

Bà Nội đã làm việc nặng nhọc suốt đời Bà và không thích rảnh rỗi. Khi Bà ở Lhasa và có thai, Bà thường tập thể dục bằng cách leo lên trên mái nhà, ôm một tảng đá đi tới đi lui. Bà nói với chúng tôi “Các cháu hư hỏng rồi, các cháu không biết làm những việc nặng nhọc”.

Vào đầu thập niên 1960 chúng tôi lập một văn phòng Tây Tạng ở Geneva, Thụy Sĩ và Lobsang Samten, anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma và là chú của tôi, làm đại diện của Tây Tạng ở đó. Bà Nội đã tới đó ở một thời gian với gia đình của ông. Sau đó Bà tới Bloomington, Indiana, Hoa Kỳ thăm gia đình bác Norbu, anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma và cha tôi. Bà đi thăm lần lượt các con cháu của mình, kể cả Đức Đạt Lai Lạt Ma ở thủ phủ lưu vong Dharamsala và chúng tôi ở Darjeeling. Tất cả chúng tôi đều sung sướng được gặp lại Bà vì chúng tôi thích ở cùng Bà. Bà không bao giờ mắng hay chê trách ai. Uy quyền tự nhiên của Bà làm cho mọi người kính trọng Bà.

Cha tôi đã rời Tây Tạng đến Trung Quốc vào năm ông mới mười sáu tuổi. Ông muốn học chữ và học ngành hành chánh. Ở đó ông cưới một cô gái Trung Hoa, Mẹ của tôi, và vì người Tây Tạng nói chung không ưa người Trung Hoa nên bà Nội khuyên cha tôi không nên trở về Tây Tạng với người vợ của mình. Cha mẹ tôi đã đi tới Ấn Độ và sống ở đó. Ở Ấn Độ chị của tôi được sinh ra năm 1950, năm 1952 tôi chào đời, rồi tới em trai của tôi, 1954.

Bà Nội tôi rất dễ dãi và cởi mở với Mẹ tôi. Dù có sự nghi kỵ lâu đời giữa người Tây Tạng và người Trung Hoa, bà Nội và Mẹ tôi vẫn hợp với nhau. Bà Nội đã cho con gái út và các cháu đi học ở Ấn Độ, nơi Mẹ tôi trông coi họ. Mẹ tôi là một người đàn bà tân thời, có học và quản lý gia đình và nuôi dạy các con theo những phương cách xa lạ đối với bà Nội, nhưng bà Nội chấp nhận những gì Mẹ tôi làm và hết sức giúp đỡ bà. Bà Nội thấy rằng Mẹ tôi có thể trông coi sáu đứa trẻ như con của mình và dạy bảo cho chúng ngoan ngoãn. Tôi không bao giờ nghe thấy một lời nói chê trách hay tức giận nào giữa Nội và Mẹ, và cũng không bao giờ cảm thấy có một chút hờn giận nào giữa hai người.

Mẹ tôi cũng là một người cao quý, thuộc một gia đình danh tiếng ở Trung Quốc. Cha của bà là một viên tướng của Thống Chế Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa Dân Quốc). Bà đã học đại học và chuẩn bị du học ở Hoa Kỳ khi gặp và kết hôn với cha tôi. Bà đã chứng tỏ mình không chỉ là một người vợ và một người mẹ tốt mà còn là một công chức có năng lực.

Diki Tsering 2a

Bà Diki Tsering và các con


Năm 1959, khi người tị nạn Tây Tạng bắt đầu đến Ấn Độ, Mẹ tôi nghĩ rằng nên cần phải giúp họ có thể sống tự túc. Với tiền bán vé của một trận bóng đá gây quỹ từ thiện, bà đã mua một miếng đất của Dòng Tên và xây dựng một trung tâm tự lực. Ở đó Mẹ tôi làm việc cần mẫn mỗi ngày và vào lúc bà qua đời vào năm 1986, có gần sáu trăm người sống và làm việc ở trung tâm đó.

Sau khi học xong đại học, chị tôi, Yangzom Doma, đi Anh Quốc để học ở Trường Nghiên Cứu Đông Phương và Phi Châu ở London và chị đã tốt nghiệp môn Hoa Ngữ và Tạng Ngữ. Khi chị trở về Ấn Độ, Cha tôi bảo chị làm việc cho chính phủ lưu vong Tây Tạng. Ông luôn khuyến khích chúng tôi làm tròn bổn phận với dân với nước của mình. Chị tôi làm việc ở Thư Viện Tác Phẩm và Tài Liệu Tây Tạng, nơi chị trở thành chủ nhiệm báo “Tibet Journal”.

Khi ở Dharamsala, chị Yangzom Doma thường tới thăm bà Nội và tất nhiên bà làm những món ăn mà chị ưa thích. Một hôm, vào năm 1979, chị tôi có ý tưởng ghi chép tiểu sử của bà Nội. Khi chị nói ra những ý tưởng này, bà Nội ngạc nhiên vì chưa có ai hỏi Bà có những cảm nghĩ gì về những sự kiện trong cuộc đời của mình. Nhưng bà Nội đồng ý kể những gì Bà có thể nhớ và trong khoảng một năm sau đó, hai bà cháu đã nói chuyện với nhau và chị Yangzom Doma đã ghi lại những lời kể của bà Nội. Khi đã bắt đầu kể thì bà Nội không cần phải có người thúc giục mình nhiều. Chị tôi nói rằng Bà hăng hái kể đến mức những câu chuyện của Bà đều có vẻ tươi mới, dù chuyện đã xảy ra mấy chục năm trước.

Một điều bi thảm xảy ra là chị tôi đã chết trong một tai nạn xe hơi ở Tunisia, Bắc Phi Châu, vào năm 1982. Tôi là người đầu tiên nhận được tin này và tôi nói cho Mẹ tôi biết. Sức khỏe của bà suy sụp vì đau khổ và bà không bao giờ phục hồi hoàn toàn sau khi bị mất con gái của mình. Bà bị ung thư và qua đời năm 1986. Hàng ngàn người Tây Tạng đã đến tụng kinh cầu siêu cho bà trong tang lễ. Dù Mẹ tôi là người Trung Hoa, họ đều tôn kính bà.

Tôi cưới vợ năm 1983 và vợ tôi sớm có thai. Một đêm tại khách sạn ở thành phố New York, chị tôi xuất hiện với tôi trong một giấc mộng. Chị nói với tôi rằng vợ tôi sẽ sinh con gái và chị sẽ là đứa con gái đó. Tôi đã không nói với bất cứ ai về chuyện này vì tôi không biết chuyện này có đáng tin hay không. Khi con gái tôi ra đời, Mẹ tôi rất sung sướng. Đứa cháu gái mang lại một niềm vui nhỏ cho bà sau khi chị tôi mất.

Tôi ly dị vợ khi con gái tôi lên năm và tôi đã phải gà trống nuôi con mười một năm qua. Tôi phải nói rằng con gái giống chị tôi ở nhiều điểm. Thí dụ như chữ viết của hai người giống nhau. Tôi giữ tất cả quần áo và vật dụng của chị tôi trong mấy cái thùng để ở căn gác trong nhà, và con gái tôi thích lục lọi những món đồ này. Cháu nói “Thật kỳ lạ, cô Yangzom có tất cả những thứ mà con thích”. Cháu thích mặc tất cả những trang phục của chị tôi. Vì vậy bây giờ tôi tin chắc rằng chị tôi đã tái sinh trong gia đình tôi và điều này làm cho tôi vui vẻ.

Tôi đã hứa với con gái là tôi sẽ không lấy vợ khác khi con chưa trưởng thành, và sẽ dành tất cả thời giờ cho con. Chúng tôi trở thành đôi bạn tốt. Nhưng năm ngoái tôi nói với con gái “Bây giờ con đã có đời sống của mình, cha đã bốn mươi tám tuổi rồi, và cha cần có một người bạn đời trong tuổi già. Cha cần phải lấy vợ”. Con gái tôi đã đồng ý. Mới đây tôi đã tục huyền và vợ chồng chúng tôi có một con gái vào tháng sáu vừa qua (1999). Chúng tôi đặt tên cho con theo tên của Mẹ tôi. Tôi nghĩ rằng Mẹ tôi cũng đã tái sinh trong gia đình tôi.

Khi Mẹ tôi qua đời, mọi người ở Trung tâm tị nạn đến thăm Đức Đạt Lai Lạt Ma và thỉnh cầu Ngài chỉ định tôi trong coi trung tâm này. Tôi nói rằng tôi sẽ làm công việc này nếu em trai tôi, một bác sĩ, sẽ giúp đỡ tôi. Vì vậy đó là công việc mà chúng tôi đã làm từ năm 1986 cho đến nay. Hiện tại trung tâm chiếm chín mươi phần trăm thời giờ của tôi.

Trung tâm tị nạn này là trung tâm đáng chú ý nhất ở Ấn Độ vì không dựa vào sự giúp đỡ từ thiện của người khác. Chúng tôi dệt thảm và chúng tôi có một máy in tối tân, một y viện chụp tia X, một phòng xét nghiệm máu, một bệnh viện và một trường học. Chúng tôi phục vụ cho 750 người. Để hỗ trợ cho gia đình mình, vào cuối tuần tôi tới nông trại của tôi ở Kalinpong, nơi tôi có một xưởng làm mì. Những món mì của tôi dùng nhiều ở vùng đó. Tôi cũng là một thành viên được bầu cử của Quốc Hội Tây Tạng. Tôi đã đi nhiều nơi và diễn thuyết về vấn đề Tây Tạng, đặc biệt là khi tôi ở New York, Washington DC và Nhật Bản.

Vì chị tôi đã qua đời trước khi có thể hoàn thành cuốn sách này nên tôi kế tục chị làm công việc quan trọng này. Bà Nội chỉ nói tiếng Tây Tạng và chị tôi đã dịch những lời kể của Bà sang tiếng Anh. Tôi đã soạn những lời ghi chú để xuất bản. Câu chuyện được kể lại ở đây không trọn vẹn, nhưng là những sự kiện quan trọng trong cuộc đời và thời đại của Diki Tsering và là một sự đóng góp cho những nỗ lực của chị tôi. Tôi vui sướng vì bây giờ nhiều người được biết về bà Nội của tôi.


Viết tại Dharamsala năm 2000
Khedroob Thondup
(Cháu nội bà Diki Tsering)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2020(Xem: 5581)
Tạo ra một cuộc sống Hạnh phúc cho riêng bản thân và gia đình là ưu tiên hàng đầu của hầu hết người Mỹ. Mặc dù những điều cụ thể làm cho chúng ta Hạnh phúc có thể khác nhau đối với mỗi chúng ta, nhưng tất cả chúng ta đều biết Hạnh phúc khi chúng ta trải nghiệm nó: Đó là cảm giác hài lòng chung mà chúng ta đang sống một cuộc sống có mục đích, thỏa mãn.
24/06/2020(Xem: 5969)
Một pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni với tư thế ngồi cao 13,7 mét (45-foot) được dựng lên ở khu Chittagong Hill, Bangladesh trên cơ sở của ngôi Già lam Tainkhalipara Sanghamitva Seva Sangha Vihar (TSSSV) đã trở thành một biểu tượng của sự hợp nhất cộng đồng trong một khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng bởi sự xung đột và bất ổn.
24/06/2020(Xem: 6283)
Theo các nhà nghiên cứu về văn hóa lịch sử và khảo cổ học cho biết, những bức bích họa tranh tường màu sắc rực rỡ và tàn tích Phật giáo được khai quật tại Cộng hòa Uzbekistan, một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của Liên bang Xô viết, có niên đại từ thế kỷ thứ 2 và thứ 3, đã làm sáng tỏ sự hấp dẫn về sự lan tỏa nghệ thuật Phật giáo dọc theo con đường tơ lụa cổ đại.
24/06/2020(Xem: 8907)
Cổ nhân có câu: "sinh, bệnh, lão, tử". Bốn giai đoạn này không ai có thể tránh khỏi. Chuẩn bị ứng phó với bệnh tật và tuổi già của mình và của thân nhân mình là điều ai cũng có dịp nghĩ tới, kể cả chính kẻ viết bài này là tôi cũng đang sắp sửa bước vào tuổi “thất thập cổ lai hi”. Anh bạn thân của tôi, Bs. TNT từ lâu có đề nghị tôi viết một bài về "Viện Dưỡng Lão" (VDL) để giúp bà con mình có thêm một chút khái niệm về VDL vì anh biết trong suốt 27 năm qua tôi đã liên tục săn sóc cho các cụ già tại các viện dưỡng lão, và cũng đã là "Giám Đốc Y Tế" (Medical Director) của nhiều VDL trong vùng. Nay tôi muốn chia sẻ cùng qúy bạn một số kinh nghiệm và hiểu biết về VDL.
22/06/2020(Xem: 7983)
Truyện tích kể rằng sau khi đi một vòng châu du hoằng Pháp ở các làng mạc, Đức Phật trở về tịnh xá, và giữa chúng Tăng có cuộc thảo luận về trạng thái gồ ghề hay bằng phẳng của các con đường đã trải qua. Đức Phật nói rằng thảo luận về các con đường ấy không thích hợp cho sự giải thoát, đó chỉ là những đoạn đường ở bên ngoài thân tâm. Ngài khuyên chư Tăng nên lưu tâm đến con đường cao thượng là “Bát Chánh Đạo” thuộc giáo lý “Tứ Diệu Đế” và những việc cần phải làm khác để sớm đắc được đạo quả. Những giáo lý căn bản của Đạo Phật đưọc tóm tắt như sau đây:
20/06/2020(Xem: 8775)
Hai sự phân biệt được giới thiệu mà trước đây không được nêu rõ trong tài liệu về lòng bi mẫn, điều này có thể làm rõ những gì đang được nghiên cứu và khuyến khích sự chú ý đến các hình thức bi mẫn đã bị bỏ qua phần lớn. Sự khác biệt đầu tiên là liệu mục tiêu của hành vi bi mẫn là gần (ví dụ, nhìn thấy ai đó ngã xuống, trầy xước đầu gối của mình) hoặc xa (ví dụ, một người không quan sát trực tiếp ai có thể bị thương hiện tại hoặc trong tương lai). Gần là ngay lập tức, khắc phục nếu có thể cho những đau khổ chứng kiến; xa ngăn ngừa tác hại trong tương lai xảy ra. Nhóm phân biệt thứ hai đề cập đến việc lòng bi mẫn là sự thấu cảm, liên quan đến hành động hay là một khát vọng.
19/06/2020(Xem: 13719)
Tặng quà cho 285 hộ nghèo Ấn Độ ở 2 ngôi làng Katorwa-Mucharim (gần chùa Kiều Đàm Di VN- Bodhgaya) địa điểm cách Bồ Đề Đạo Tràng nơi đức Phật thành Đạo 7 cây số. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree cho phụ nữ, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200 Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD. (Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác.)
17/06/2020(Xem: 10020)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
17/06/2020(Xem: 6359)
Thật là một điều trùng hợp khi vừa đọc xong bài viết của Ôn Hội Chủ HT Thích Bảo Lạc được đăng tải trên trangnhaquangduc vào ngày 05/04/2020 là lúc tôi đang ôn lại hết những gì về Duy Thức Học và Vi Diệu Pháp vì thật ra khi đọc kinh sách của Nam Tông và Bắc Tông tôi đã tự nhận thấy Chữ Tâm luôn là đề tài mà người tu học phải tự điều phục và do đó lần nữa Chữ Tâm đã được gặp lại trong pháp môn này nhưng thêm vào chút thâm thuý sâu sắc khi được khảo sát qua ba tiến trình ( THỂ- TƯỚNG - DỤNG ) mà biểu hiện là Ý , THỨC , TÂM .
16/06/2020(Xem: 7119)
Tiến sĩ B. Alan Wallace, học giả, cư sĩ diễn thuyết, tuyên dương diệu pháp Như Lai, đã viết và dịch nhiều sách Phật giáo Tây Tạng. Ông không ngừng tìm kiếm các phương thức mới để hòa nhập việc tu tập Phật pháp với khoa học hiện đại và hậu thuẫn cho các nghiên cứu về tâm thức. Ông đã thực hành Phật giáo từ thập niên 1970, đã giảng dạy lý thuyết và hướng dẫn tu tập thiền định Phật giáo trên toàn thế giới từ năm 1076. Ông đã dành 14 năm sống trong chốn thiền môn với cuơng vị một tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng và phúc duyên được Đức Đạt Lai Lạt Ma thế độ xuất gia.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]